PHẦN THỨ NHẤT

GIỚI THIỆU CÁC LUẬT, NGHỊ QUYẾT

ĐƯỢC THÔNG QUA TẠI KỲ HỌP THỨ 10 QUỐC HỘI KHÓA XIV

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT CƯ TRÚ

I. SỰ CẦN THIẾT XÂY DỰNG, BAN HÀNH LUẬT CƯ TRÚ  

 Tự do cư trú là một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi  nhận trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta và được cụ thể hóa trong các văn  bản quy phạm pháp luật về cư trú với những quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục đăng ký cư trú; qua đó, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho công dân được thực  hiện quyền tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú.

Luật Cư trú năm 2006 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư  trú năm 2013 (sau đây gọi chung là Luật Cư trú) được ban hành đã đánh dấu  bước tiến quan trọng trong công tác lập pháp của Nhà nước ta, góp phần từng  bước hoàn thiện quy định của pháp luật về cư trú, đáp ứng yêu cầu của công tác  quản lý hành chính về trật tự xã hội, yêu cầu quản lý dân cư, bảo đảm an ninh,  trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội của  đất nước, phục vụ có hiệu quả việc thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng,  Nhà nước trong từng thời kỳ. Trên cơ sở các quy định của pháp luật về cư trú, tổ chức bộ máy cơ quan đăng ký, quản lý cư trú của lực lượng Công an nhân dân  được củng cố, kiện toàn với đội ngũ cán bộ, cơ sở vật chất ngày càng được tăng  cường; cơ sở dữ liệu về cư trú với hệ thống tàng thư hồ sơ hộ khẩu đã và đang  đáp ứng yêu cầu phục vụ công tác quản lý nhà nước về cư trú.

Tuy nhiên, trước yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự trong tình hình  mới, yêu cầu quản lý nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm thực hiện  quyền con người, quyền công dân và chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành  chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư, ứng dụng khoa học, công  nghệ tiên tiến đã đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện pháp luật về cư trú;  trong đó, việc xây dựng, ban hành Luật Cư trú (sửa đổi) là cần thiết với những lý  do cụ thể sau đây: 

- Thứ nhất, bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do cư trú của công dân.

Hiến pháp năm 2013 đã quy định quyền tự do cư trú, đi lại, giao dịch,  quyền bầu cử, ứng cử, học tập, làm việc, sở hữu tài sản, quyền bất khả xâm  phạm về chỗ ở, về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân… là quyền con người,  quyền công dân được Nhà nước công nhận, tôn trọng và bảo vệ. Quản lý cư trú  có liên quan trực tiếp đến những quyền này. Việc sửa đổi Luật Cư trú là để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm quyền con người, quyền  công dân liên quan đến quản lý cư trú theo hướng quy định công khai, minh  bạch, đơn giản hóa giấy tờ, giảm thời gian, chi phí; xóa bỏ các thủ tục hành  chính còn rườm rà, dễ bị lợi dụng để gây phiền hà cho người dân; qua đó, bảo  đảm tốt hơn nữa việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân.

- Thứ hai, góp phần nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác quản lý nhà nước  về an ninh, trật tự trong tình hình mới.

Tình hình an ninh, chính trị thế giới, khu vực có những diễn biến phức tạp,  khó lường. Trong và ngoài nước, các thế lực thù địch vẫn còn gây sức ép với  Việt Nam về vấn đề dân chủ, nhân quyền, công khai tiếp xúc, hỗ trợ số đối  tượng chống đối, thực hiện các hoạt động thâm nhập, tác động chuyển hóa nội  bộ, tuyên truyền chống Việt Nam, kích động gây rối, bạo loạn nhằm gây mất ổn  định chính trị - xã hội ở nước ta. Tình hình an ninh, trật tự trên các địa bàn Tây  Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ vẫn còn tiềm ẩn yếu tố phức tạp, khó lường. Bên  cạnh đó, tình hình tội phạm còn diễn biến phức tạp. Các loại tội phạm có tổ chức  hoạt động theo kiểu xã hội đen, giết người, đánh bạc, buôn lậu, trộm cắp, lừa  đảo chiếm đoạt tài sản, mua bán người, chống người thi hành công vụ, mua bán  trái phép chất ma túy, tội phạm có yếu tố nước ngoài, tội phạm sử dụng công  nghệ cao, tội phạm do người chưa thành niên thực hiện… còn xảy ra ở nhiều  nơi, gây ra những hậu quả nghiêm trọng, xâm phạm trực tiếp đến tính mạng, sức  khỏe con người, gây lo lắng trong Nhân dân.

Tại Nghị quyết số 111/2015/QH13 ngày 27/11/2015 của Quốc hội khóa  XIII về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm đã đề ra nhiệm vụ thực hiện tốt công tác phòng ngừa xã hội, phát hiện, đấu tranh ngăn chặn các  hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; tạo chuyển biến rõ rệt về an ninh, trật tự,  an toàn xã hội. Do đó, để thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được Quốc hội giao thì  cần phải tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong  đó, công tác quản lý con người, quản lý về cư trú của công dân góp phần tích  cực, có hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm và các hành vi vi phạm  pháp luật khác. 

Trước yêu cầu bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội  trong tình hình mới, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/ĐUCA ngày 08/01/2018 về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm  trật tự, an toàn xã hội, xây dựng lực lượng Công an nhân dân năm 2018 và  những năm tiếp theo; Nghị quyết đã đặt ra nhiệm vụ là tăng cường quản lý cư  trú, quản lý dân cư, góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về an ninh, trật tự trong tình hình mới. 

- Thứ ba, thực hiện việc đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân  liên quan đến công tác đăng ký, quản lý cư trú.

Hiện nay, các quy định của Luật Cư trú về điều kiện, thủ tục đăng ký cư trú  đã tương đối cụ thể, rõ ràng, tạo cơ sở pháp lý cho công dân thực hiện quyền tự do cư trú, lựa chọn nơi cư trú; tuy nhiên, về trình tự, thủ tục đăng ký cư trú còn  mang tính thủ công, rườm rà, chưa đáp ứng yêu cầu cải cách thủ tục hành chính,  nhất là sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017  về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân  cư, trong đó có phương án bãi bỏ hình thức quản lý dân cư bằng Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý theo số định danh cá nhân cập nhật  thông tin trên Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư thì việc thực hiện trình tự, thủ tục đăng ký cư trú cho công dân cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với hình  thức quản lý mới cũng như yêu cầu quản lý dân cư trong tình hình mới; qua đó, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân khi thực hiện thủ tục đăng ký cư trú  cũng như tạo ra sự chuyển biến căn bản trong quan hệ giải quyết thủ tục đăng ký  cư trú giữa cơ quan nhà nước với người dân. 

Bên cạnh đó, việc tổ chức triển khai dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư  đã đạt nhiều kết quả quan trọng như: Đã hoàn thiện khung pháp lý cho việc triển  khai dự án; đã xây dựng hạ tầng Trung tâm dữ liệu quốc gia về dân cư tại Hà  Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; triển khai thu thập thông tin dân cư và tổ chức  cấp hơn 18 triệu số định danh cá nhân cho công dân. 

Tại khoản 1 Mục I Phần B Phương án đơn giản hóa thủ tục hành chính,  giấy tờ công dân ban hành kèm theo Nghị quyết số 112/NQ-CP ngày 30/10/2017  của Chính phủ về đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan  đến quản lý dân cư đã giao Bộ Công an chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan  liên quan sửa đổi, bổ sung Luật Cư trú để thực hiện nội dung đơn giản hóa thủ tục hành chính nêu tại Mục VIII Phần A Phương án đơn giản hóa thủ tục hành  chính, giấy tờ công dân; cụ thể là: 

+ Bãi bỏ hình thức quản lý dân cư đăng ký thường trú bằng Sổ Hộ khẩu,  đăng ký tạm trú bằng Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức quản lý thông qua  mã số định danh cá nhân. Từ đó, bãi bỏ kết quả giải quyết thủ tục là Sổ Hộ khẩu,  Sổ Tạm trú và thay thế bằng hình thức cập nhật thông tin trên Cơ sở dữ liệu  quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú; 

+ Bãi bỏ toàn bộ hoặc một phần các thủ tục hành chính có nội dung liên  quan đến Sổ Hộ khẩu, Sổ Tạm trú như: Tách Sổ Hộ khẩu; cấp đổi Sổ Hộ khẩu;  cấp lại Sổ Hộ khẩu; điều chỉnh những thay đổi trong Sổ Hộ khẩu; xóa đăng ký  thường trú; xác nhận việc trước đây đã đăng ký thường trú; hủy bỏ kết quả đăng  ký thường trú trái pháp luật; cấp giấy chuyển hộ khẩu; cấp đổi Sổ Tạm trú; cấp  lại Sổ Tạm trú; điều chỉnh những thay đổi trong Sổ Tạm trú; gia hạn tạm trú;  hủy bỏ đăng ký tạm trú trái pháp luật. 

-Thứ tư, đáp ứng yêu cầu ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong  công tác quản lý cư trú 

Trong điều kiện nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất  nước và chủ động hội nhập quốc tế, yêu cầu đặt ra là phải hiện đại hóa công tác  quản lý cư trú theo hướng ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến,  phù hợp với xu hướng của các nước trên thế giới. Trong khi đó, khoa học, công  nghệ trong đăng ký, quản lý cư trú ở nước ta còn lạc hậu, chưa đáp ứng được  yêu cầu ngày càng tăng của công dân, chưa bảo đảm phục vụ tốt yêu cầu quản lý  dân cư và hội nhập quốc tế; mặt khác, dữ liệu đăng ký, quản lý cư trú hiện nay  chủ yếu được lưu trữ thủ công; việc cấp, quản lý, sử dụng giấy tờ về đăng ký,  quản lý cư trú tuy có nhiều cố gắng cải tiến, sắp xếp hợp lý hơn nhưng vẫn chưa  đáp ứng được yêu cầu đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân; do đó,  cần quy định việc đăng ký, quản lý cư trú theo hướng ứng dụng khoa học, công  nghệ tiên tiến để vừa quản lý chặt chẽ dân cư, vừa góp phần đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ cho công dân và từng bước thực hiện Chính phủ điện tử.

Để đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong công tác quản  lý cư trú, Đảng ủy Công an Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 08- NQ/ĐUCA ngày 01/8/2017 về tiếp tục hoàn thiện pháp luật về an ninh, trật tự đến năm 2020, định hướng đến năm 2030; Nghị quyết đặt ra yêu cầu: Sửa đổi,  bổ sung Luật Cư trú để đẩy mạnh cải cách hành chính và ứng dụng khoa học,  công nghệ trong quản lý cư trú. Bên cạnh đó, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết  định số 366/QĐ-TTg ngày 11/3/2020 về việc phê duyệt điều chỉnh chủ trương  đầu tư dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư; trong đó, xác định thời gian thực  hiện dự án là đến năm 2021. Bộ Công an có Kế hoạch số 82/KH-BCA-C06 ngày  04/3/2020 về triển khai thực hiện dự án Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư đã xác  định việc hoàn thành, đưa vào vận hành Cơ sở dữ liệu này trên toàn quốc trước  tháng 06/2021. 

Từ những lý do nêu trên cho thấy, việc xây dựng, ban hành Luật Cư trú  (sửa đổi) là cần thiết. 

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT  CƯ TRÚ  

1. Mục đích xây dựng Luật 

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật về cư trú bảo đảm phù hợp với chủ trương  cải cách hành chính và tiến trình hội nhập, mở rộng giao lưu, hợp tác quốc tế trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xu thế hội  nhập quốc tế hiện nay. 

- Thực hiện chủ trương hiện đại hóa và đơn giản hóa thủ tục hành chính,  giấy tờ công dân liên quan đến công tác quản lý dân cư; bảo đảm tốt hơn nữa  tính công khai, minh bạch, tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho công dân thực  hiện quyền tự do cư trú và tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về cư  trú. 

- Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật quy định về các  giấy tờ của công dân; đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội, góp phần phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và bảo  đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội của đất nước. 

2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng dự án Luật 

- Bảo đảm phù hợp với quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà  nước về quản lý cư trú và chủ trương đơn giản hóa thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư. 

- Tạo khuôn khổ pháp lý hữu hiệu để bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của  công dân, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho công dân Việt Nam, người Việt Nam  định cư ở nước ngoài vẫn còn quốc tịch Việt Nam trở về Việt Nam sinh sống,  làm ăn; trình tự, thủ tục đăng ký đơn giản, thuận tiện, kịp thời, công khai, minh  bạch, không gây phiền hà, tiêu cực; đồng thời, bảo đảm cho công tác đăng ký,  quản lý cư trú có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.

- Đổi mới hình thức quản lý cư trú trên cơ sở ứng dụng có hiệu quả thành  tựu khoa học, công nghệ tiên tiến trong quản lý cư trú, bảo đảm tính khoa học,  công khai, minh bạch và thuận tiện cho đăng ký, quản lý cư trú. 

- Tổng kết đầy đủ, toàn diện thực tiễn thi hành pháp luật về cư trú để kế thừa các quy định của Luật Cư trú còn phù hợp và đang phát huy tác dụng trong  công tác đăng ký, quản lý cư trú; đồng thời, tiếp thu có chọn lọc pháp luật và  kinh nghiệm quản lý cư trú của nước ngoài để vận dụng phù hợp với đặc điểm,  điều kiện của Việt Nam. 

- Quy định cụ thể các nội dung liên quan đến cư trú, hạn chế đến mức thấp  nhất việc phải ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành luật để các cơ quan, tổ chức, cá nhân chấp hành luật nghiêm chỉnh, kịp thời, thống nhất. 

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT CƯ TRÚ 

Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về xây dựng dự án Luật Cư trú (sửa đổi),  Bộ Công an đã thành lập Ban Soạn thảo và Tổ Biên tập xây dựng dự án Luật Cư  trú (sửa đổi). Các thành viên của Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập gồm đại diện các  cơ quan Văn phòng Chính phủ, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc  phòng và Bộ Công an. 

Dự án Luật đã được gửi lấy ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban  nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Công an các đơn vị, địa  phương và gửi lấy ý kiến của các thành viên Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập dự án  Luật. Hồ sơ dự án Luật được đăng tải trên Cổng thông tin điện tử Chính phủ,  Cổng thông tin điện tử của Bộ Công an để lấy ý kiến rộng rãi của các tổ chức, cá  nhân theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Các ý kiến  tham gia đã được Bộ Công an tổng hợp, nghiên cứu tiếp thu và giải trình. Đồng  thời, hồ sơ dự án Luật Cư trú (sửa đổi) đã được Bộ Tư pháp thẩm định và Chính  phủ cho ý kiến theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật  năm 2015. 

IV. BỐ CỤC CỦA LUẬT CƯ TRÚ  

Ngày 13/11/2020, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV, Quốc hội đã biểu  quyết thông qua Luật Cư trú năm 2020 với 93,15% đại biểu Quốc hội tán thành,  Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2021. Luật Cư trú số 81/2006/QH11 đã  được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 36/2013/QH13 hết hiệu lực kể từ 

ngày Luật Cư trú năm 2000 có hiệu lực thi hành. 

Luật Cư trú năm 2000 gồm 7 chương với 38 điều. Những quy định của  Luật Cư trú năm 2000 được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển những quy  định của pháp luật hiện hành, bảo đảm phù hợp với quan điểm, chủ trương,  chính sách của Đảng, Nhà nước về quản lý cư trú và chủ trương đơn giản hóa  thủ tục hành chính, giấy tờ công dân liên quan đến quản lý dân cư. Bên cạnh đó,  việc xây dựng, ban hành Luật Cư trú năm 2000 nhằm bảo đảm tốt hơn nữa  quyền tự do cư trú của công dân cũng như góp phần nâng cao hiệu quả công tác  quản lý Nhà nước về an ninh, trật tự trong tình hình mới.

1. Chương I: Những quy định chung gồm 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7) quy định về phạm vi điều chỉnh; giải thích từ ngữ; nguyên tắc cư trú và quản lý  cư trú; việc thực hiện quyền tự do cư trú của công dân; bảo đảm việc thực hiện  quyền tự do cư trú của công dân và quản lý cư trú; hợp tác quốc tế về quản lý cư  trú và các hành vi bị nghiêm cấm về cư trú. 

2. Chương II: Quyền và nghĩa vụ của công dân về cư trú gồm 3 điều  (từ Điều 8 đến Điều 10) quy định về quyền của công dân về cư trú; nghĩa vụ của công dân về cư trú; quyền, nghĩa vụ của chủ hộ và thành viên hộ gia đình về cư trú. 

3. Chương III: Nơi cư trú gồm 8 điều (từ Điều 11 đến Điều 19) quy định  về nơi cư trú của công dân; nơi cư trú của người chưa thành niên; nơi cư trú của  người được giám hộ; nơi cư trú của vợ, chồng; nơi cư trú của người học tập,  công tác, làm việc trong lực lượng vũ trang; nơi cư trú của người sinh sống,  người làm nghề lưu động trên tàu, thuyền hoặc phương tiện khác có khả năng di  chuyển; nơi cư trú của người hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trẻ em, người  khuyết tật, người không nơi nương tựa trong cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo;  nơi cư trú của người được chăm sóc, nuôi dưỡng, trợ giúp và nơi cư trú của  người không có nơi thường trú, nơi tạm trú.

4. Chương IV: Đăng ký thường trú gồm 7 điều (từ Điều 20 đến Điều  26) quy định về điều kiện đăng ký thường trú; hồ sơ đăng ký thường trú; thủ tục  đăng ký thường trú; địa điểm không được đăng ký thường trú mới; xóa đăng ký  thường trú; tách hộ và điều chỉnh thông tin về cư trú trong Cơ sở dữ liệu về cư  trú. 

5. Chương V: Đăng ký tam trú, thông báo lưu trú, khai báo tạm vắng  gồm 5 điều (từ Điều 27 đến Điều 31) quy định về điều kiện đăng ký tạm trú; hồ sơ, thủ tục đăng ký tạm trú, gia hạn tạm trú; xóa đăng ký tạm trú; thông báo lưu  trú và khai báo tạm vắng. 

6. Chương VI: Trách nhiệm quản lý cư trú gồm 5 điều (từ Điều 32 đến  Điều 36) quy định về trách nhiệm quản lý nhà nước về cư trú; trách nhiệm của  cơ quan đăng ký cư trú; người làm công tác đăng ký cư trú; hủy bỏ đăng ký  thường trú, đăng ký tạm trú và cơ sở dữ liệu về cư trú. 

7. Chương VII: Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 37 và Điều 38) quy định về sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ một số điều của các luật có liên quan đến  quản lý cư trú và Điều khoản thi hành. 

V. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT CƯ TRÚ  

1. Bổ sung phần giải thích từ ngữ 

Luật Cư trú năm 2006, sửa đổi năm 2013 không có phần giải thích từ ngữ mà quy định cụ thể trong từng điều luật khi đề cập đến thường trú, tạm trú. Luật  Cư trú năm 2020 đã bổ sung một điều để giải thích một số từ ngữ, cụ thể tại  Điều 2 quy định:

- Chỗ ở hợp pháp là nơi được sử dụng để sinh sống, thuộc quyền sở hữu  hoặc quyền sử dụng của công dân, bao gồm nhà ở, tàu, thuyền, phương tiện khác  có khả năng di chuyển hoặc chỗ ở khác theo quy định của pháp luật. So với Luật  năm 2006 thì việc giải thích chỗ ở hợp pháp đã có một số thay đổi như: bổ sung  quy định chỗ ở hợp pháp có thể di chuyển được như tàu, thuyền; chỗ ở hợp pháp  là nơi để sinh sống chứ không phải nơi cư trú như Luật cũ. 

- Cư trú là việc công dân sinh sống tại một địa điểm thuộc đơn vị hành  chính cấp xã hoặc đơn vị hành chính cấp huyện ở nơi không có đơn vị hành  chính cấp xã (sau đây gọi chung là đơn vị hành chính cấp xã). 

- Cơ sở dữ liệu về cư trú là cơ sở dữ liệu chuyên ngành, tập hợp thông tin  về cư trú của công dân, được số hóa, lưu trữ, quản lý bằng cơ sở hạ tầng thông  tin, được kết nối, chia sẻ với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cơ sở dữ liệu  khác theo quy định của pháp luật. 

- Cơ quan đăng ký cư trú là cơ quan quản lý cư trú trực tiếp thực hiện việc  đăng ký cư trú của công dân, bao gồm Công an xã, phường, thị trấn; Công an  huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc  trung ương ở nơi không có đơn vị hành chính cấp xã. 

- Đăng ký cư trú là việc thực hiện thủ tục đăng ký thường trú, đăng ký tạm  trú, khai báo tạm vắng; thông báo lưu trú và khai báo thông tin, điều chỉnh thông  tin về cư trú. 

- Lưu trú là việc công dân ở lại một địa điểm không phải nơi thường trú  hoặc nơi tạm trú trong thời gian ít hơn 30 ngày. 

- Tạm vắng là việc công dân vắng mặt tại nơi cư trú trong một khoảng thời gian nhất định. 

- Nơi thường trú là nơi công dân sinh sống ổn định, lâu dài và đã được đăng  ký thường trú; 

- Nơi tạm trú là nơi công dân sinh sống trong một khoảng thời gian  nhất định ngoài nơi thường trú và đã được đăng ký tạm trú. 

- Nơi ở hiện tại là nơi thường trú hoặc nơi tạm trú mà công dân đang  thường xuyên sinh sống; trường hợp không có nơi thường trú, nơi tạm trú thì nơi  ở hiện tại là nơi công dân đang thực tế sinh sống. 

2. Thêm nhiều trường hợp công dân bị hạn chế quyền cư trú 

Điều 10 Luật Cư trú 2006 chỉ quy định 03 trường hợp công dân bị hạn chế  quyền cư trú gồm: Người bị cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng  biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú; Người bị Toà án áp dụng hình phạt cấm cư trú;  người bị kết án phạt tù nhưng chưa có quyết định thi hành án, được hưởng án  treo hoặc đang được hoãn, tạm đình chỉ thi hành án phạt tù; người đang bị quản  chế và người bị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở chữa bệnh,  cơ sở giáo dục nhưng đang được hoãn chấp hành hoặc tạm đình chỉ thi hành.

Từ ngày 01/7/2021, bổ sung thêm nhiều trường hợp công dân bị hạn chế quyền cư trú như người được tha tù trước thời hạn có điều kiện đang trong thời  gian thử thách; người bị quản lý trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định  áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện  bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; người bị cách ly do có nguy cơ lây lan  dịch bệnh cho cộng đồng; địa điểm, khu vực cách ly vì lý do phòng, chống dịch  bệnh theo quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền; địa bàn có tình trạng  khẩn cấp theo quy định của pháp luật; địa điểm không được đăng ký thường trú  mới, đăng ký tạm trú mới, tách hộ theo quy định của Luật Cư trú. 

3. Bổ sung nhiều hành vi bị nghiêm cấm về cư trú 

Điều 7 Luật Cư trú năm 2020 bổ sung các hành vi bị nghiêm cấm về cư trú  từ ngày 01/7/2021 gồm không tiếp nhận, trì hoãn việc tiếp nhận hồ sơ, giấy tờ,  tài liệu, thông tin đăng ký cư trú hoặc có hành vi nhũng nhiễu khác; không thực  hiện, thực hiện không đúng thời hạn đăng ký cư trú cho công dân khi hồ sơ đủ  điều kiện đăng ký cư trú; xóa đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú trái với quy  định của pháp luật; giải quyết cho đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú khi biết  rõ người đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú không sinh sống tại chỗ ở đó;  đồng ý cho người khác đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú vào chỗ ở của mình  để vụ lợi hoặc trong thực tế người đăng ký thường trú, đăng ký tạm trú không  sinh sống tại chỗ ở đó; truy nhập, khai thác, hủy hoại, làm cản trở, gián đoạn  hoạt động, thay đổi, xóa, phát tán, cung cấp trái phép thông tin trong Cơ sở dữ  liệu về cư trú. 

4. Quyền của công dân về cư trú 

Điều 8 Luật Cư trú năm 2020 quy định quyền của công dân về cư trú có  một số điểm mới như được bảo đảm bí mật thông tin cá nhân, thông tin về hộ gia đình trong Cơ sở dữ liệu về cư trú, trừ trường hợp cung cấp theo quy định  của pháp luật; được khai thác thông tin về cư trú của mình trong Cơ sở dữ liệu  quốc gia về dân cư; được cơ quan đăng ký cư trú trong cả nước không phụ thuộc  vào nơi cư trú của mình xác nhận thông tin về cư trú khi có yêu cầu; được cơ  quan đăng ký cư trú cập nhật, điều chỉnh thông tin về cư trú của mình trong Cơ  sở dữ liệu về cư trú khi có thay đổi hoặc khi có yêu cầu. 

5. Nghĩa vụ của công dân về cư trú 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú năm 2013 quy định công  dân có trách nhiệm báo ngay với cơ quan đã đăng ký cư trú khi sổ hộ khẩu, sổ  tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú bị mất hoặc bị hư hỏng. Luật Cư trú  năm 2020 đã bỏ quy định này vì từ ngày 01/01/2021 đã thực hiện việc bỏ sổ hộ  khẩu, áp dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý cư trú của công dân. 

6. Nơi cư trú của người chưa thành niên 

Về cơ bản Luật Cư trú năm 2020 kế thừa quy định của Luật Cư trú năm  2006, sửa đổi năm 2013 quy định về nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi  cư trú của cha, mẹ; nếu cha, mẹ có nơi cư trú khác nhau thì nơi cư trú của người chưa thành niên là nơi cư trú của cha hoặc mẹ mà người chưa thành niên thường xuyên chung sống. Tuy nhiên Luật Cư trú năm 2020 bổ sung thêm quy định  trường hợp không xác định được nơi thường xuyên chung sống thì nơi cư trú  của người chưa thành niên là nơi do cha, mẹ thỏa thuận; trường hợp cha, mẹ 

không thỏa thuận được thì nơi cư trú của người chưa thành niên do Tòa án quyết  định. 

7. Bổ sung thêm nơi cư trú của một số nhóm đối tượng 

- Nơi cư trú của người hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, trẻ em, người  khuyết tật, người không nơi nương tựa trong cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo. 

- Nơi cư trú của người hoạt động tín ngưỡng, nhà tu hành, chức sắc, chức  việc, người khác hoạt động tôn giáo sinh sống trong cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn  giáo là cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo, trừ trường hợp có nơi cư trú khác theo  quy định của Luật Cư trú. 

- Nơi cư trú của trẻ em, người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết  tật nặng, người không nơi nương tựa được nhận nuôi và sinh sống trong cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo là cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo. 

- Nơi cư trú của người được chăm sóc, nuôi dưỡng, trợ giúp. 

- Nơi cư trú của người không có nơi thường trú, nơi tạm trú. 

8. Về điều kiện đăng ký thường trú ở 63 tỉnh, thành phố là như nhau 

Luật Cư trú năm 2020 không còn quy định riêng đối với trường hợp đăng  ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương, kể cả đăng ký thường trú tại  thành phố Hồ Chí Minh và Thủ đô Hà Nội. Theo đó, người dân chỉ cần có 01  trong 08 điều kiện theo quy định tại Điều 20 Luật để đăng ký thường trú, cụ thể: 

1. Công dân có chỗ ở hợp pháp thuộc quyền sở hữu của mình thì được đăng  ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp đó. 

2. Công dân được đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp không thuộc  quyền sở hữu của mình khi được chủ hộ và chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đó đồng  ý trong các trường hợp sau đây: 

a) Vợ về ở với chồng; chồng về ở với vợ; con về ở với cha, mẹ; cha, mẹ về ở với con; 

b) Người cao tuổi về ở với anh ruột, chị ruột, em ruột, cháu ruột; người  khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người không có khả năng lao  động, người bị bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm mất khả năng nhận thức,  khả năng điều khiển hành vi về ở với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh  ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột,  người giám hộ; 

c) Người chưa thành niên được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý hoặc  không còn cha, mẹ về ở với cụ nội, cụ ngoại, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột;  người chưa thành niên về ở với người giám hộ. 

3. Trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này, công dân được đăng ký  thường trú tại chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ khi đáp ứng các điều kiện  sau đây: 

a) Được chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đồng ý cho đăng ký thường trú tại địa  điểm thuê, mượn, ở nhờ và được chủ hộ đồng ý nếu đăng ký thường trú vào  cùng hộ gia đình đó; 

b) Bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do Hội đồng nhân dân cấp  tỉnh quy định nhưng không thấp hơn 08 m2 sàn/người. 

4. Công dân được đăng ký thường trú tại cơ sở tín ngưỡng, cơ sở tôn giáo  có công trình phụ trợ là nhà ở khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: 

a) Người hoạt động tôn giáo được phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử,  thuyên chuyển đến hoạt động tôn giáo tại cơ sở tôn giáo; 

b) Người đại diện cơ sở tín ngưỡng; 

c) Người được người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng đồng ý  cho đăng ký thường trú để trực tiếp quản lý, tổ chức hoạt động tín ngưỡng tại cơ  sở tín ngưỡng; 

d) Trẻ em, người khuyết tật đặc biệt nặng, người khuyết tật nặng, người  không nơi nương tựa được người đại diện hoặc ban quản lý cơ sở tín ngưỡng,  người đứng đầu hoặc người đại diện cơ sở tôn giáo đồng ý cho đăng ký thường  trú. 

5. Người được chăm sóc, nuôi dưỡng, trợ giúp được đăng ký thường trú tại  cơ sở trợ giúp xã hội khi được người đứng đầu cơ sở đó đồng ý hoặc được đăng  ký thường trú vào hộ gia đình nhận chăm sóc, nuôi dưỡng khi được chủ hộ và  chủ sở hữu chỗ ở hợp pháp đồng ý. 

6. Người sinh sống, người làm nghề lưu động trên phương tiện được đăng  ký thường trú tại phương tiện đó khi đáp ứng các điều kiện sau đây: 

a) Là chủ phương tiện hoặc được chủ phương tiện đó đồng ý cho đăng ký  thường trú; 

b) Phương tiện được đăng ký, đăng kiểm theo quy định của pháp luật;  trường hợp phương tiện không thuộc đối tượng phải đăng ký, đăng kiểm thì phải  có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phương tiện thường xuyên đậu, đỗ về việc sử dụng phương tiện đó vào mục đích để ở; 

c) Có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã về việc phương tiện đã đăng ký  đậu, đỗ thường xuyên trên địa bàn trong trường hợp phương tiện không  phải đăng ký hoặc nơi đăng ký phương tiện không trùng với nơi thường xuyên  đậu, đỗ.

7. Việc đăng ký thường trú của người chưa thành niên phải được sự đồng ý  của cha, mẹ hoặc người giám hộ, trừ trường hợp nơi cư trú của người chưa thành  niên do Tòa án quyết định. 

8. Công dân không được đăng ký thường trú mới tại chỗ ở quy định tại  Điều 23 của Luật này, trừ trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều này. 

9. Hồ sơ, thủ tục đăng ký tạm trú 

Điều 21 Luật Cư trú năm 2006 quy định. Hồ sơ đăng ký thường trú bao  gồm phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân khẩu; bản khai nhân khẩu; giấy chuyển  hộ khẩu và giấy tờ chứng minh chỗ ở hợp pháp. Luật Cư trú năm 2020 quy định  07 nhóm hồ sơ đăng ký thường trú tương ứng với từng đối tượng đăng ký  thường trú. 

10. Thời hạn giải quyết đăng ký thường trú và địa điểm không được  đăng ký thường trú mới 

Khoản 3 Điều 21 Luật Cư trú năm 2006 quy định trong thời hạn mười lăm  ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ quan có thẩm quyền phải cấp sổ hộ khẩu cho  người đã nộp hồ sơ đăng ký thường trú; trường hợp không cấp phải trả lời bằng  văn bản và nêu rõ lý do. 

Khoản 3 Điều 22 Luật Cư trú năm 2020 quy định trong thời hạn 07 ngày  làm việc kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, cơ quan đăng ký cư trú  có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin về nơi thường trú mới của người  đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo cho người đăng ký về việc  đã cập nhật thông tin đăng ký thường trú; trường hợp từ chối đăng ký thì phải trả 

lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Như vậy thời gian giải quyết đăng ký thường  trú theo Luật Cư trú năm 2020 đã rút ngắn xuống còn 07 ngày. 

Về địa điểm không được đăng ký thường trú mới. Đây là quy định mới tại  Điều 23 Luật Cư trú năm 2020, cụ thể: 

- Chỗ ở nằm trong địa điểm cấm, khu vực cấm xây dựng hoặc lấn, chiếm  hành lang bảo vệ quốc phòng, an ninh, giao thông, thủy lợi, đê điều, năng lượng,  mốc giới bảo vệ công trình hạ tầng kỹ thuật, di tích lịch sử - văn hóa đã được  xếp hạng, khu vực đã được cảnh báo về nguy cơ lở đất, lũ quét, lũ ống và khu  vực bảo vệ công trình khác theo quy định của pháp luật. 

- Chỗ ở mà toàn bộ diện tích nhà ở nằm trên đất lấn, chiếm trái phép hoặc  chỗ ở xây dựng trên diện tích đất không đủ điều kiện xây dựng theo quy định  của pháp luật. 

- Chỗ ở đã có quyết định thu hồi đất và quyết định phê duyệt phương án bồi  thường, hỗ trợ và tái định cư của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chỗ ở là nhà  ở mà một phần hoặc toàn bộ diện tích nhà ở đang có tranh chấp, khiếu nại liên  quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng nhưng chưa được giải quyết theo quy  định của pháp luật.

- Chỗ ở bị tịch thu theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;  phương tiện được dùng làm nơi đăng ký thường trú đã bị xóa đăng ký phương  tiện hoặc không có giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường theo  quy định của pháp luật. 

- Chỗ ở là nhà ở đã có quyết định phá dỡ của cơ quan nhà nước có thẩm  quyền.

11. Quy định về xóa đăng ký thường trú 

Bên cạnh việc kế thừa các trường hợp xóa đăng ký thường trú theo quy  định của Luật Cư trú năm 2006, Luật Cư trú năm 2020 bổ sung thêm một số  trường hợp xóa đăng ký thường trú như: 

- Vắng mặt liên tục tại nơi thường trú từ 12 tháng trở lên mà không đăng ký  tạm trú tại chỗ ở khác hoặc không khai báo tạm vắng, trừ trường hợp xuất cảnh  ra nước ngoài nhưng không phải để định cư hoặc trường hợp đang chấp hành án  phạt tù, chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai  nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; 

- Đã được cơ quan có thẩm quyền cho thôi quốc tịch Việt Nam, tước quốc  tịch Việt Nam, hủy bỏ quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam; 

- Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã  chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ mà sau 12 tháng kể từ ngày chấm dứt việc  thuê, mượn, ở nhờ vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp  quy định tại điểm h khoản này; 

- Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở hợp pháp nhưng sau đó quyền sở  hữu chỗ ở đó đã chuyển cho người khác mà sau 12 tháng kể từ ngày chuyển  quyền sở hữu vẫn chưa đăng ký thường trú tại chỗ ở mới, trừ trường hợp được  chủ sở hữu mới đồng ý tiếp tục cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ và cho đăng ký  thường trú tại chỗ ở đó hoặc trường hợp quy định tại điểm h khoản này; 

- Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ nhưng đã  chấm dứt việc thuê, mượn, ở nhờ và không được người cho thuê, cho mượn, cho  ở nhờ đồng ý cho giữ đăng ký thường trú tại chỗ ở đó; người đã đăng ký thường  trú tại chỗ ở thuộc quyền sở hữu của mình nhưng đã chuyển quyền sở hữu chỗ  ở cho người khác và không được chủ sở hữu mới đồng ý cho giữ đăng ký  thường trú tại chỗ ở đó; 

- Người đã đăng ký thường trú tại chỗ ở đã bị phá dỡ, tịch thu theo quyết  định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tại phương tiện đã bị xóa đăng  ký phương tiện theo quy định của pháp luật.

12. Lưu trú dưới 30 ngày không cần đăng ký tạm trú 

Khoản 2 Điều 30 Luật Cư trú năm 2006 quy định người đang sinh sống,  làm việc, lao động, học tập tại một địa điểm thuộc xã, phường, thị trấn nhưng  không thuộc trường hợp được đăng ký thường trú tại địa phương đó thì trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày đến phải đăng ký tạm trú tại Công an xã,  phường, thị trấn. 

Khoản 1 Điều 27 Luật Cư trú năm 2020 quy định công dân đến sinh sống  tại chỗ ở hợp pháp ngoài phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đã đăng ký  thường trú để lao động, học tập hoặc vì mục đích khác từ 30 ngày trở lên thì  phải thực hiện đăng ký tạm trú. Như vậy, từ ngày 01/01/2021 người dân đến và  sinh sống tại một địa điểm ngoài địa điểm đã đăng ký thường trú từ 30 ngày trở 

lên mới phải đăng ký tạm trú. 

13. Quy định về khai báo tạm vắng 

Luật Cư trú năm 2020 đã tăng thời gian đối với một số nhóm đối tượng  phải khai báo tạm vắng và bổ sung thêm trường hợp đối với những đối tượng  không thuộc trường hợp phải khai báo tạm vắng khi đi khỏi nơi cư trú, cụ thể Điều 31 quy định: 

1. Công dân có trách nhiệm khai báo tạm vắng trong các trường hợp sau  đây: 

a) Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đang cư trú từ 01 ngày trở lên đối với bị can, bị cáo đang tại ngoại; người bị kết án phạt tù nhưng chưa có  quyết định thi hành án hoặc đã có quyết định thi hành án nhưng đang tại ngoại  hoặc được hoãn chấp hành án, tạm đình chỉ chấp hành án; người bị kết án phạt  tù được hưởng án treo đang trong thời gian thử thách; người đang chấp hành án  phạt quản chế, cải tạo không giam giữ; người được tha tù trước thời hạn có điều  kiện đang trong thời gian thử thách; 

b) Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi đang cư trú từ 01 ngày trở lên đối với người đang chấp hành biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn;  người phải chấp hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ  sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng nhưng đang được hoãn chấp  hành hoặc tạm đình chỉ chấp hành; người bị quản lý trong thời gian làm thủ tục  xem xét, quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào  cơ sở cai nghiện bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng; 

c) Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp huyện nơi đang cư trú từ 03  tháng liên tục trở lên đối với người trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự hoặc người đang phải thực hiện các nghĩa vụ khác đối với Nhà nước theo quyết  định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; 

d) Đi khỏi phạm vi đơn vị hành chính cấp xã nơi thường trú từ 12 tháng  liên tục trở lên đối với người không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b  và c khoản này, trừ trường hợp đã đăng ký tạm trú tại nơi ở mới hoặc đã xuất  cảnh ra nước ngoài. 

2. Trước khi đi khỏi nơi cư trú, người quy định tại điểm a và điểm b khoản  1 Điều này phải đến khai báo tạm vắng tại cơ quan đăng ký cư trú nơi người đó cư trú; khi đến khai báo tạm vắng phải nộp đề nghị khai báo tạm vắng và văn  bản đồng ý của cơ quan có thẩm quyền giám sát, quản lý, giáo dục người đó. 

Cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra nội dung khai  báo. Trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị khai báo  tạm vắng, cơ quan đăng ký cư trú cấp phiếu khai báo tạm vắng cho công dân;  trường hợp phức tạp thì thời gian giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá  02 ngày làm việc. 

3. Người quy định tại điểm c và điểm d khoản 1 Điều này có thể đến khai  báo tạm vắng trực tiếp tại cơ quan đăng ký cư trú nơi người đó cư trú hoặc khai  báo qua điện thoại, phương tiện điện tử hoặc phương tiện khác do Bộ trưởng Bộ Công an quy định. Trường hợp người quy định tại điểm d khoản 1 Điều này là  người chưa thành niên thì người thực hiện khai báo là cha, mẹ hoặc người giám  hộ. 

4. Nội dung khai báo tạm vắng bao gồm họ và tên, số định danh cá nhân  hoặc số Chứng minh nhân dân, số hộ chiếu của người khai báo tạm vắng; lý do  tạm vắng; thời gian tạm vắng; địa chỉ nơi đến. 

5. Cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm cập nhật thông tin khai báo tạm  vắng của công dân vào Cơ sở dữ liệu về cư trú và thông báo cho người khai báo  về việc đã cập nhật thông tin khai báo tạm vắng khi có yêu cầu. 

14. Chính thức bỏ sổ hộ khẩu giấy, Sổ tạm trú 

Theo đó, kể từ ngày 01/7/2021, chính thức bỏ Sổ hộ khẩu giấy, Sổ tạm trú.  Thay vào đó, người dân khi thực hiện thủ tục đăng ký thường trú, tạm trú sẽ  được cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thẩm định, cập nhật thông tin về nơi  cư trú mới của người đăng ký vào Cơ sở dữ liệu về cư trú thay vì cấp Sổ hộ  khẩu, Sổ tạm trú như quy định trước đây tại Điều 18, Điều 30 Luật Cư trú 2006. 

Sổ hộ khẩu giấy, Sổ tạm trú đã cấp vẫn có giá trị sử dụng đến hết  31/12/2022. Theo đó, trường hợp người dân đã được cấp Sổ hộ khẩu giấy, Sổ  tạm trú thì trước ngày 01/07/2021 thì sổ hộ khẩu giấy, Sổ tạm trú đã được cấp  vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy  định cho đến hết ngày 31/12/2022. Ngoài ra khi công dân thực hiện các thủ tục  đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ  quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực  hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định  và không cấp mới, cấp lại Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú. 

15. Sửa khái niệm hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế 

Cụ thể, khoản 2 Điều 37 Luật Cư trú năm 2020 sửa khái niệm hộ gia đình  tham gia bảo hiểm y tế như sau: Hộ gia đình tham gia bảo hiểm y tế là những  người cùng đăng ký thường trú hoặc cùng đăng ký tạm trú tại một chỗ ở hợp  pháp theo quy định của pháp luật về cư trú.

Hiện hành, tại khoản 7 Điều 2 Luật Bảo hiểm y tế 2008 (sửa đổi, bổ sung  năm 2014) quy định hộ gia đình tham bảo hiểm y tế bao gồm toàn bộ người có  tên trong sổ hộ khẩu hoặc sổ tạm trú. 

Luật Cư trú số 81/2006/QH11 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo  Luật số 36/2013/QH13 hết hiệu lực kể từ ngày Luật Cư trú năm 2020 có hiệu  lực thi hành. 

Kể từ ngày Luật Cư trú năm 2020 có hiệu lực thi hành, Sổ hộ khẩu, Sổ tạm  trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của Luật này cho đến hết ngày 31/12/2022. 

Trường hợp thông tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú khác với thông tin trong  Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú. 

Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký cư trú dẫn đến thay đổi thông  tin trong Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu  hồi Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong  Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của Luật này và không cấp mới, cấp lại Sổ 

hộ khẩu, Sổ tạm trú. 

Chính phủ, Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan khác có liên quan rà soát các  văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành có nội dung quy  định liên quan đến Sổ hộ khẩu, Sổ tạm trú hoặc có yêu cầu xuất trình giấy tờ, tài  liệu xác nhận về cư trú để sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quy định của Luật  Cư trú năm 2020, hạn chế việc sử dụng thông tin về nơi cư trú là điều kiện  để thực hiện các thủ tục hành chính.

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG

I. SỰ CẦN THIẾT SỬA ĐỔI LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 

Luật Bảo vệ môi trường số 55/2014/QH13 đã đưa ra nhiều chính sách, cách  tiếp cận đổi mới, từng bước đưa phương thức quản lý, giải quyết các vấn đề về môi trường từ bị động ứng phó sang chủ động phòng ngừa, kiểm soát các dự án có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường để đóng góp cho tăng trưởng kinh tế theo hướng bền vững. Tuy nhiên, những vấn đề và thách thức mới phát sinh từ thực tiễn cuộc sống, được nghị trường và các đại biểu Quốc hội quan tâm, phản ánh, trao đổi và thảo luận đặt ra yêu cầu cấp thiết phải sửa đổi Luật Bảo vệ môi  trường, cụ thể là: 

1. Luật Bảo vệ môi trường hiện hành chưa tiếp cận và cập nhật kịp với  những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn; cách thức quản lý còn mang nặng tính  mệnh lệnh hành chính, chủ yếu dựa vào quy trình, thủ tục, chưa chú trọng quản lý  theo mục tiêu và kết quả về bảo vệ môi trường; một số quy định mới chỉ ở mức  khung, chưa quy định chi tiết nên chưa bảo đảm các yếu tố thực thi; nhiều nội  dung về bảo vệ môi trường còn phân tán tại các luật khác nhau. Kinh nghiệm  của nhiều nước cho thấy việc quản lý môi trường phải gắn với kết quả, mục tiêu  cuối cùng về bảo vệ môi trường, gắn trách nhiệm tuân thủ của doanh nghiệp  kèm theo chế tài xử lý nghiêm khắc. Bên cạnh đó, vấn đề môi trường không có  ranh giới cụ thể nên cần phải được tiếp cận một cách tổng thể, có hệ thống. Trong khi đó, năm 1993 chúng ta mới có Luật Bảo vệ môi trường đầu tiên, đến  nay qua 02 lần sửa đổi nhưng nhiều nội dung về bảo vệ môi trường vẫn đang  được quy định phân tán tại các luật khác nhau, chưa hướng đến mục tiêu tổng  thể, chưa quán triệt chủ trương bảo vệ môi trường là một trong ba trụ cột của  phát triển bền vững.  

2. Môi trường nước ta đang diễn biến ngày càng phức tạp; chất lượng môi  trường tại một số nơi đã vượt ngưỡng cho phép, không còn khả năng tiếp nhận  chất thải. Đã xuất hiện những sự cố môi trường lớn, đặc biệt là sự cố môi trường  do Formosa gây ra, đòi hỏi phải nhanh chóng thay đổi phương thức quản lý,  kiểm soát về môi trường đối với các dự án đầu tư lớn, phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ  gây ô nhiễm môi trường cao. Bên cạnh đó, sự bùng phát dịch bệnh, đặc biệt là  đại dịch COVID-19 hiện nay đang gióng lên hồi chuông cảnh báo về vấn đề bảo  vệ môi trường. 

3. Nhiều quan điểm, chủ trương, chính sách mới của Đảng và Nhà nước về  phát triển bền vững, bảo vệ môi trường đã được ban hành cùng với nhiều cam  kết quốc tế có liên quan đến môi trường đã được Việt Nam tham gia (hiệp định  CPTPP, EVFTA, v.v.) đặt ra yêu cầu cần sớm được thể chế hóa để tạo hành lang  pháp lý triển khai thực hiện. Thành tựu của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  với sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ đã đặt ra cơ hội về đổi mới tư  duy, cách thức trong quản lý môi trường, định hình các mô hình tăng trưởng mới cũng như những thách thức về sự dịch chuyển công nghệ cũ, ô nhiễm vào nước ta.  

Những vấn đề nêu trên cho thấy đã đến lúc cần hình thành đạo luật về bảo  vệ môi trường một cách tổng thể, toàn diện, đồng bộ và thống nhất, bảo đảm  tính hiệu lực, hiệu quả trong triển khai thực hiện. 

II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 

1. Mục tiêu 

Thể chế hóa kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà  nước, đặc biệt là Kết luận số 56-KT/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị; cải  cách thể chế môi trường của Việt Nam tiệm cận hài hòa với chính sách pháp luật  BVMT trên thế giới, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; mục tiêu cao nhất là cải  thiện chất lượng môi trường, bảo vệ sức khỏe người dân, cân bằng sinh thái, bảo  tồn đa dạng sinh học và phát triển kinh tế bền vững. 

2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật 

a) Bảo vệ môi trường phải được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định  phát triển; môi trường không chỉ là không gian sinh tồn của con người, mà còn  là điều kiện, nền tảng, yếu tố tiên quyết cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững.  Không đánh đổi môi trường lấy tăng trưởng kinh tế; thực hiện sàng lọc, lựa chọn  đầu tư phát triển dựa trên các tiêu chí về môi trường. Bảo đảm hài hòa lợi ích,  tạo động lực khuyến khích các bên liên quan tham gia công tác Bảo vệ môi  trường; 

b) Bảo vệ môi trường phải lấy bảo vệ sức khoẻ Nhân dân làm mục tiêu hàng  đầu, bảo đảm mọi người dân đều có quyền được sống trong môi trường trong lành; dựa trên cơ sở phòng ngừa là chính, kết hợp với khắc phục ô nhiễm, suy thoái và  cải thiện chất lượng môi trường; 

c) Với vai trò là một đạo luật cơ bản về bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường phải đảm bảo được tính toàn diện, đồng bộ, thống nhất, khắc phục  được sự phân tán, tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho việc định hình chuyển đổi  các mô hình kinh tế theo hướng bền vững;  

d) Tạo cơ sở pháp lý thực hiện các cam kết quốc tế, trách nhiệm được quy  định trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. 

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 

Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội, dự án Luật  này được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh  Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 9 và thông qua tại Kỳ họp thứ 10. Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài nguyên và Môi trường tổ chức xây dựng dự án Luật theo đúng quy định của Luật  Ban hành văn bản quy phạm pháp luật và trình Chính phủ trong tháng 3 năm 2020.  Quá trình xây dựng dự án Luật gồm các hoạt động chính sau đây:

1. Đánh giá tình hình thực hiện Luật Bảo vệ môi trường 2014, tập trung vào  những kết quả đạt được, những vấn đề khó khăn, hạn chế của Luật Bảo vệ môi  trường 2014 để xác định những nội dung cần tiếp tục hoàn thiện. Rà soát các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến bảo vệ môi trường, phát  triển bền vững được ban hành trong thời gian gần đây để cập nhật, thể chế hóa.  Tổng hợp các vấn đề, yêu cầu, chính sách liên quan đến môi trường trong các cam  kết, điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia nhằm xác định các vấn đề cần quan  tâm, bổ sung trong dự án Luật để bảo đảm đáp ứng các cam kết, điều ước quốc tế này.  

2. Tổ chức rà soát, tổng hợp các tồn tại, bất cập trong công tác bảo vệ môi  trường trên thực tế; khó khăn, vướng mắc của các bộ, ngành, địa phương, doanh  nghiệp và người dân kiến nghị trong quá trình thực thi các quy định về bảo vệ môi trường nhằm xem xét các vấn đề cần bổ sung, sửa đổi, giải quyết trong Luật  Bảo vệ môi trường 2014. 

3. Tổ chức nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật về bảo vệ môi trường của  hơn 10 quốc gia (bao gồm: Mỹ, Úc, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ,  Singapore, Thái Lan, Malaysia, v.v), đặc biệt là nghiên cứu sâu kinh nghiệm của  Hàn Quốc vì có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam. 

4. Trong quá trình thực hiện, Cơ quan soạn thảo đã tổ chức nhiều phiên họp  Ban soạn thảo, Tổ biên tập, các nhóm chuyên gia; tổ chức hơn 40 cuộc tọa đàm,  hội thảo chuyên đề với sự tham gia của đại diện nhiều bộ, ngành, địa phương,  chuyên gia trong nước, các tổ chức quốc tế để tham vấn ý kiến đối với dự thảo  Luật; đã gửi văn bản lấy ý kiến chính thức của các Bộ ngành, 63 địa phương,  một số doanh nghiệp, tổ chức, hội nghề nghiệp; tham vấn các đại biểu Quốc hội,  Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Dự thảo Luật đã được đăng tải  trên Cổng thông tin điện của Chính phủ, Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài  nguyên và Môi trường để lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của Nhân dân, các tổ chức, cá nhân, đối tượng chịu sự tác động, các chuyên gia, nhà khoa học trong  nước và quốc tế. Đã nhận được ý kiến của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan, tổ chức khác; các tỉnh, thành phố; 09 tổ chức quốc tế; 20 chuyên gia; 40 doanh  nghiệp, tổ chức, cá nhân. 

5. Ngày 21/02/2020, Bộ Tư pháp đã tổ chức họp Hội đồng thẩm định và có  Báo cáo số 34/BC-BTP ngày 27/02/2020 về thẩm định dự án Luật.  

6. Ngày 03/3/2020, Chính phủ đã họp cho ý kiến về nội dung của dự án  Luật tại phiên họp thường kỳ tháng 02 năm 2020. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến của  các thành viên Chính phủ, Chính phủ đã hoàn thiện dự án Luật, trình Quốc hội. 

7. Sau khi có ý kiến kết luận của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ý kiến thẩm  tra của Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội, Cơ quan  soạn thảo hoàn thiện thêm một bước dự án Luật, làm việc trực tuyến và tiếp tục lấy ý kiến chính thức bằng văn bản các Bộ, ngành; tổ chức Hội nghị trực tuyến  lấy ý kiến của 63 tỉnh, thành phố; tổ chức tham vấn thêm các chuyên gia trong  và ngoài nước; từ ngày 07 đến ngày 15/5/2020, Cơ quan soạn thảo đã làm việc trực tiếp với các Bộ, ngành, cơ quan có liên quan để tiếp thu, hoàn thiện dự án  Luật. 

8. Ngày 21/5/2020, Lãnh đạo Chính phủ đã họp với các bộ, ngành có liên  quan để thảo luận, thống nhất về các nội dung còn có ý kiến khác nhau và cho ý  kiến chỉ đạo chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật. Cơ quan soạn thảo đã chỉnh lý,  hoàn thiện dự án Luật. 

IV. BỐ CỤC CỦA LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 

Ngày 17/11/2020, tại kỳ họp thứ 10 Quốc hội Khóa XIV, Quốc hội đã tiến  hành biểu quyết thông qua Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020, với 443/466 đại  biểu tán thành, chiếm 91,91%. Luật Bảo vệ môi trường năm 2000 gồm 16  chương, 171 Điều, có hiệu lực 01/01/2022.  

1. Chương I: Những quy định chung gồm 6 điều (từ Điều 1 đến Điều 6)  quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; nguyên  tắc bảo vệ môi trường; chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường và các  hành vi bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường. 

2. Chương II: Bảo vệ các thành phần môi trường, di sản thiên nhiên  gồm 15 điều (từ Điều 7 đến Điều 21), quy định về quy định chung về bảo vệ  môi trường nước mặt; hoạt động bảo vệ môi trường nước mặt; kế hoạch quản lý  chất lượng môi trường nước mặt; bảo vệ môi trường nước dưới đất; bảo vệ môi  trường nước biển; quy định chung về bảo vệ môi trường không khí; kế hoạch  quản lý chất lượng môi trường không khí; trách nhiệm thực hiện quản lý chất  lượng môi trường không khí; quy định chung về bảo vệ môi trường đất; phân  loại khu vực ô nhiễm môi trường đất; quản lý chất lượng môi trường đất; xử lý,  cải tạo và phục hồi môi trường đất; trách nhiệm bảo vệ môi trường đất; di sản  thiên nhiên và nội dung bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên. 

3. Chương III: Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch bảo  vệ môi trường quốc gia; nội dung bảo vệ môi trường trong quy hoạch vùng,  quy hoạch tỉnh gồm 2 điều (từ Điều 22 đến Điều 23) quy định về chiến lược  bảo vệ môi trường quốc gia và quy hoạch bảo vệ môi trường quốc gia. 

4. Chương IV: Đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá tác động môi  trường, giấy phép môi trường gồm 25 điều (từ Điều 25 đến Điều 49) quy  định về đối tượng phải thực hiện đánh giá môi trường chiến lược; thực hiện đánh  giá môi trường chiến lược; nội dung đánh giá môi trường chiến lược; tiêu chí về  môi trường để phân loại dự án đầu tư; đánh giá sơ bộ tác động môi trường; đối  tượng phải thực hiện đánh giá tác động môi trường; thực hiện đánh giá tác động  môi trường; nội dung của báo cáo đánh giá tác động môi trường; tham vấn trong  đánh giá tác động môi trường; thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường;  thẩm quyền thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; quyết định phê  duyệt kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; trách nhiệm của  chủ dự án đầu tư sau khi có quyết định phê duyệt kết quả thẩm định báo cáo  đánh giá tác động môi trường; trách nhiệm của cơ quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường; đối tượng phải có giấy phép môi trường; nội dung giấy  phép môi trường; thẩm quyền cấp giấy phép môi trường; căn cứ và thời điểm  cấp giấy phép môi trường; hồ sơ, trình tự, thủ tục cấp giấy phép môi trường; cấp  đổi, điều chỉnh, cấp lại, tước quyền sử dụng, thu hồi giấy phép môi trường; phí  thẩm định cấp giấy phép môi trường; công trình bảo vệ môi trường và vận hành  thử nghiệm công trình xử lý chất thải của dự án đầu tư sau khi được cấp giấy  phép môi trường; quyền, nghĩa vụ của chủ dự án đần tư, cơ sở được cấp giấy  phép môi trường; trách nhiệm của cơ quan cấp giấy phép môi trường và đăng ký  môi trường. 

5. Chương V: Bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh  doanh, dịch vụ; đô thị và nông thôn; trong một số lĩnh vực gồm 22 điều (từ  Điều 50 đến Điều 71) quy định về bảo vệ môi trường đối với khu kinh tế; bảo  vệ môi trường đối với khu sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tập trung; bảo vệ môi  trường đối với cụm công nghiệp; bảo vệ môi trường đối với cơ sở sản xuất, kinh  doanh, dịch vụ; trách nhiệm tái chế của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu;  trách nhiệm thu gom, xử lý chất thải của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu;  bảo vệ môi trường làng nghề; bảo vệ môi trường khu đô thị, khu dân cư; bảo vệ  môi trường nông thôn; bảo vệ môi trường nơi công cộng; bảo vệ môi trường đối  với hộ gia đình, cá nhân; bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp; bảo vệ  môi trường trong hoạt động y tế và kiểm soát tác động của ô nhiễm môi trường  đến sức khỏe con người; bảo vệ môi trường trong mai táng, hỏa táng; bảo vệ  môi trường trong hoạt động xây dựng; bảo vệ môi trường trong hoạt động giao  thông vận tải; bảo vệ môi trường trong hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch;  bảo vệ môi trường trong hoạt động thăm dò, khai thác, chế biến khoáng sản và  hoạt động dầu khí; bảo vệ môi trường đối với cơ sở nghiên cứu, đào tạo, phòng  thí nghiệm; bảo vệ môi trường trong quản lý chất ô nhiễm khó phân hủy và  nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, thiết bị có chứa chất ô  nhiễm khó phân hủy; bảo vệ môi trường trong nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất,  quá cảnh hàng hóa và bảo vệ môi trường trong nhập khẩu phế liệu từ nước  ngoài. 

6. Chương VI: Quản lý chất thải và kiểm soát các chất ô nhiễm khác  gồm 18 điều (từ Điều 72 đến Điều 89) quy định về yêu cầu về quản lý chất  thải; giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế và xử lý chất thải nhựa, phòng, chống ô  nhiễm rác thải nhựa đại dương; kiểm toán môi trường; phân loại, lưu giữ,  chuyển giao chất thải rắn sinh hoạt; điểm tập kết, trạm trung chuyển chất thải  rắn sinh hoạt; thu gom, vận chuyển chất thải rắn sinh hoạt; xử lý chất thải rắn  sinh hoạt; chi phí thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải rắn sinh hoạt; xử lý ô nhiễm, cải tạo môi trường bãi chôn lấp chất thải rắn sinh hoạt; phân loại, lưu  giữ, vận chuyển chất thải rắn công nghiệp thông thường; xử lý chất thải rắn công  nghiệp thông thường; khai báo, phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển chất  thải nguy hại; xử lý chất thải nguy hại; trách nhiệm của chủ cơ sở thực hiện dịch  vụ xử lý chất thải nguy hại; thu gom, xử lý nước thải; hệ thống xử lý nước thải;  quản lý và kiểm soát bụi, khí thải; quản lý và kiểm soát tiếng ồn, độ rung, ánh  sáng, bức xạ, mùi khó chịu.

7. Chương VII: Ứng phó với biến đổi khí hậu gồm 7 điều (từ Điều 90  đến Điều 97) quy định về thích ứng với biến đổi khí hậu; giảm nhẹ phát thải khí  nhà kính; bảo vệ tầng ô-dôn; lồng ghép nội dung ứng phó với biến đổi khí hậu  vào chiến lược, quy hoạch; cơ sở dữ liệu quốc gia về biến đổi khí hậu; báo cáo  quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; thực hiện cam kết quốc tế về biến đổi khí  hậu và bảo vệ tầng ô-dôn.

8. Chương VIII: Quy chuẩn kỹ thuật môi trường, tiêu chuẩn môi  trường gồm 9 điều (từ Điều 97 đến Điều 105) quy định về hệ thống quy chuẩn  kỹ thuật môi trường; nguyên tắc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kỹ thuật môi  trường về chất lượng môi trường xung quanh; quy chuẩn kỹ thuật môi trường về  giới hạn các chất ô nhiễm khó phân hủy trong nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu,  sản phẩm, hàng hóa, thiết bị; nguyên tắc xây dựng và áp dụng quy chuẩn kỹ  thuật môi trường về chất thải, quản lý chất thải, quản lý phế liệu nhập khẩu từ  nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; yêu cầu đối với quy chuẩn kỹ thuật môi  trường về chất lượng môi trường xung quanh; yêu cầu đối với quy chuẩn kỹ  thuật môi trường về chất thải, quản lý chất thải, quản lý phế liệu nhập khẩu từ  nước ngoài làm nguyên liệu sản xuất; xây dựng, thẩm định, ban hành quy chuẩn  kỹ thuật môi trường; tiêu chuẩn môi trường; xây dựng, thẩm định và công bố  tiêu chuẩn môi trường và áp dụng kỹ thuật hiện có tốt nhất. 

9. Chương IX: Quan trắc môi trường, thông tin, cơ sở dữ liệu môi  trường và báo cáo môi trường gồm 15 điều (từ Điều 106 đến Điều 120) quy  định chung về quan trắc môi trường; hệ thống quan trắc môi trường; đối tượng  quan trắc môi trường; trách nhiệm quan trắc môi trường; điều kiện hoạt động  quan trắc môi trường; quan trắc nước thải; quan trắc bụi, khí thải công nghiệp;  quản lý số liệu quan trắc môi trường; thông tin về môi trường; hệ thống thông  tin, cơ sở dữ liệu môi trường; dịch vụ công trực tuyến về môi trường; chỉ tiêu  thống kê về môi trường; báo cáo công tác bảo vệ môi trường; báo cáo công tác  bảo vệ môi trường trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và báo cáo  hiện trạng môi trường. 

10. Chương X: Phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường và bồi thường  thiệt hại về môi trường gồm 15 điều (từ Điều 121 đến Điều 135) quy định  chung về phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; trách nhiệm phòng ngừa sự cố  môi trường; phân cấp sự cố môi trường và các giai đoạn ứng phó sự cố môi  trường; chuẩn bị ứng phó sự cố môi trường; tổ chức ứng phó sự cố môi trường;  phục hồi môi trường sau sự cố môi trường; trách nhiệm về phòng ngừa, ứng phó  sự cố môi trường của Bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan chuyên môn các cấp; tài  chính cho ứng phó sự cố môi trường; công khai thông tin và sự tham gia của  cộng đồng dân cư trong phòng ngừa, ứng phó sự cố môi trường; thiệt hại do ô  nhiễm, suy thoái môi trường và nguyên tắc xác định trách nhiệm bồi thường  thiệt hại về môi trường; trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại và xác định  thiệt,hại về môi trường; xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường; giải  quyết bồi thường thiệt hại về môi trường; chi phí bồi thường thiệt hại về môi trường và giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi  trường. 

11. Chương XI: Công cụ kinh tế, chính sách và nguồn lực bảo vệ môi  trường gồm 19 điều (từ Điều 136 đến Điều 154) quy định về chính sách thuế,  phí về bảo vệ môi trường; ký quỹ bảo vệ môi trường; chi trả dịch vụ hệ sinh thái  tự nhiên; tổ chức và phát triển thị trường các-bon; bảo hiểm trách nhiệm bồi  thường thiệt hại do sự cố môi trường; ưu đãi, hỗ trợ về bảo vệ môi trường; kinh  tế tuần hoàn; phát triển ngành công nghiệp môi trường; phát triển dịch vụ môi  trường; sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; mua sắm xanh; khai thác, sử  dụng và phát triển vốn tự nhiên; nguồn lực cho bảo vệ môi trường; tín dụng  xanh; trái phiếu xanh; quỹ bảo vệ môi trường; nghiên cứu khoa học, phát triển  công nghệ, ứng dụng chuyển giao công nghệ về bảo vệ môi trường; giáo dục,  đào tạo và bồi dưỡng về bảo vệ môi trường và truyền thống, phổ biến kiến thức,  tuyên truyền pháp luật về bảo vệ môi trường 

12. Chương XII: Hội nhập và hợp tác quốc tế về bảo vệ môi trường  gồm 2 điều (Điều 155, 156) quy định về nguyên tắc hội nhập và hợp tác quốc tế  về bảo vệ môi trường; trách nhiệm trong hội nhập và hợp tác quốc tế về bảo vệ  môi trường. 

13. Chương XIII: Trách nhiệm của mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ  chức chính trị- xã hội, tổ chức chính trị- xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp và cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường gồm 3 điều (từ  Điều 157 đến Điều 159) quy định về trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ  quốc Việt Nam; trách nhiệm và quyền hạn của tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức  chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; quyền và nghĩa vụ  của cộng đồng dân cư. 

14. Chương IV: Kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, xử lý vi phạm, tranh  chấp, khiếu nại, tố cáo về bảo vệ môi trường gồm 4 điều (từ Điều 161 đến  Điều 163) quy định về kiểm tra, thanh tra về bảo vệ môi trường, kiểm toán trong  lĩnh vực môi trường; xử lý vi phạm; tranh chấp về môi trường; khiếu nại, tố cáo  về môi trường. 

15. Chương XV: Trách nhiệm quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường  gồm 5 điều (từ Điều 164 đến Điều 168) quy định về nội dung quản lý nhà nước  về bảo vệ môi trường; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của  Chính phủ; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của Bộ Tài  nguyên và Môi trường; trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường của  Bộ, cơ quan ngang Bộ và trách nhiệm quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường  của Ủy ban nhân dân các cấp 

16. Chương XVI: Điều khoản thi hành gồm 3 điều ( Điều 169, 171) quy  định về sửa đổi, bổ sung một số luật có liên quan đến bảo vệ môi trường; hiệu  lực thi hành và điều khoản chuyển tiếp. 

V. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 được bố cục lại so với Luật Bảo vệ môi  trường năm 2014, đưa các quy định về bảo vệ các thành phần môi trường lên  đầu, thể hiện rõ mục tiêu xuyên suốt là bảo vệ các thành phần môi trường, bảo  vệ sức khỏe người dân, coi đây là nội dung trọng tâm, quyết định cho các chính  sách bảo vệ môi trường khác. Luật đã đồng bộ các công cụ quản lý môi trường  theo từng giai đoạn của dự án, bắt đầu từ khâu xem xét chủ trương đầu tư, thẩm  định dự án, thực hiện dự án cho đến khi dự án đi vào vận hành chính thức và kết  thúc dự án, bao gồm chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia, quy hoạch bảo vệ  môi trường, đánh giá môi trường chiến lược, đánh giá sơ bộ tác động môi  trường, đánh giá tác động môi trường, giấy phép môi trường và đăng ký môi  trường. 

Lần đầu tiên, Luật Bảo vệ môi trường thiết kế khung chính sách hướng đến  việc hình thành đạo luật về bảo vệ môi trường có tính tổng thể, toàn diện và hài  hòa với hệ thống pháp luật về kinh tế-xã hội; cải cách mạnh mẽ, cắt giảm trên  40% thủ tục hành chính, giảm thời gian thực hiện các thủ tục hành chính từ 20 - 85 ngày, góp phần giảm chi phí tuân thủ của doanh nghiệp. So với Luật Bảo vệ  môi trường năm 2014, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có những điểm mới  mang tính đột phá chính như sau: 

1. Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 quy định 07 nguyên tắc bảo vệ  môi trường, trong đó nêu rõ: 

- Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ  chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân. 

- Bảo vệ môi trường là điều kiện, nền tảng, yếu tố trung tâm, tiên quyết cho  phát triển kinh tế – xã hội bền vững. 

- Hoạt động bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu phải gắn kết  với phát triển kinh tế, quản lý tài nguyên và được xem xét, đánh giá trong quá  trình thực hiện các hoạt động phát triển. Bảo vệ môi trường gắn kết hài hòa với  an sinh xã hội, quyền trẻ em, bình đẳng giới, bảo đảm quyền mọi người được  sống trong môi trường trong lành. 

- Hoạt động bảo vệ môi trường phải được tiến hành thường xuyên, công  khai, minh bạch; ưu tiên dự báo, phòng ngừa ô nhiễm, sự cố, suy thoái môi  trường, quản lý rủi ro về môi trường, giảm thiểu phát sinh chất thải, tăng cường  tái sử dụng, tái chế chất thải để khai thác giá trị tài nguyên của chất thải. 

- Bảo vệ môi trường phải phù hợp với quy luật, đặc điểm tự nhiên, văn hóa,  lịch sử, cơ chế thị trường, trình độ phát triển kinh tế – xã hội; thúc đẩy phát triển  vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. 

- Cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân được hưởng lợi  từ môi trường có nghĩa vụ đóng góp tài chính cho bảo vệ môi trường; gây ô  nhiễm, sự cố và suy thoái môi trường phải chi trả, khắc phục, xử lý và chịu trách  nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

- Hoạt động bảo vệ môi trường bảo đảm không gây phương hại chủ quyền,  an ninh và lợi ích quốc gia, gắn liền với bảo vệ môi trường khu vực và toàn cầu. 

2. Các chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường cũng được quy  định rõ trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, cụ thể: 

- Tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia  đình và cá nhân tham gia thực hiện, kiểm tra, giám sát hoạt động bảo vệ môi  trường. 

- Tuyên truyền, giáo dục kết hợp với biện pháp hành chính, kinh tế và biện  pháp khác để tăng cường việc tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường, xây  dựng văn hóa bảo vệ môi trường. 

- Chú trọng bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên;  khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên; phát triển năng  lượng sạch và năng lượng tái tạo; phát triển hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường. 

- Ưu tiên xử lý ô nhiễm môi trường, phục hồi hệ sinh thái tự nhiên bị suy  thoái, chú trọng bảo vệ môi trường khu dân cư. 

- Đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường; bố trí khoản  chi riêng cho bảo vệ môi trường trong ngân sách nhà nước với tỷ lệ tăng dần  theo khả năng của ngân sách nhà nước và yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ môi trường;  ưu tiên nguồn kinh phí cho các nhiệm vụ trọng điểm về bảo vệ môi trường. 

- Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân  đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường; ưu đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi  trường; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường. 

- Tăng cường nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ xử lý ô nhiễm, tái  chế, xử lý chất thải; ưu tiên chuyển giao và áp dụng công nghệ tiên tiến, công  nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường, kỹ thuật hiện có tốt nhất; tăng cường  đào tạo nguồn nhân lực về bảo vệ môi trường. 

- Tôn vinh, khen thưởng cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình  và cá nhân có đóng góp tích cực trong hoạt động bảo vệ môi trường theo quy  định của pháp luật. 

- Mở rộng, tăng cường hội nhập, hợp tác quốc tế, và thực hiện cam kết  quốc tế về bảo vệ môi trường. 

- Thực hiện sàng lọc dự án đầu tư theo tiêu chí về môi trường; áp dụng  công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai đoạn của chiến lược, quy  hoạch, chương trình và dự án đầu tư. 

- Lồng ghép, thúc đẩy các mô hình kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh trong  xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, đề án, dự  án phát triển kinh tế - xã hội. 

3. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng quy định cụ thể 14 hành vi  bị nghiêm cấm trong hoạt động bảo vệ môi trường, cụ thể: 

- Vận chuyển, chôn, lấp, đổ, thải, đốt chất thải rắn, chất thải nguy hại  không đúng quy trình kỹ thuật, quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường. 

- Xả nước thải, xả khí thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi  trường ra môi trường. 

- Phát tán, thải ra môi trường chất độc hại, vi rút độc hại có khả năng lây  nhiễm cho con người, động vật, vi sinh vật chưa được kiểm định, xác súc vật  chết do dịch bệnh và tác nhân độc hại khác đối với sức khỏe con người, sinh vật  và tự nhiên. 

- Gây tiếng ồn, độ rung vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi  trường; xả thải khói, bụi, khí có mùi độc hại vào không khí. 

- Thực hiện dự án đầu tư hoặc xả thải khi chưa đủ điều kiện theo quy định  của pháp luật về bảo vệ môi trường. 

- Nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi  hình thức. 

- Nhập khẩu trái phép phương tiện, máy móc, thiết bị đã qua sử dụng để  phá dỡ, tái chế. 

- Không thực hiện công trình, biện pháp, hoạt động phòng ngừa, ứng phó,  khắc phục sự cố môi trường theo quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường  và quy định khác của pháp luật có liên quan. 

- Che giấu, hành vi gây ô nhiễm môi trường, cản trở, làm sai lệch, thông  tin, gian dối trong hoạt động bảo vệ môi trường dẫn đến hậu quả xấu đối với môi  trường. 

- Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho sức khỏe con người,  sinh vật và tự nhiên; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu  tố độc hại vượt mức cho phép theo quy chuẩn kỹ thuật môi trường. 

- Sản xuất, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất và tiêu thụ chất làm suy giảm tầng  ô-dôn theo quy định của điều ước quốc tế về các chất làm suy giảm tầng ô-dôn  mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. 

- Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên. 

- Phá hoại, xâm chiếm công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động  bảo vệ môi trường. 

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để làm trái quy định của pháp luật về bảo vệ  môi trường. 

4. Cộng đồng dân cư được quy định là một chủ thể trong công tác bảo  vệ môi trường; tăng cường công khai thông tin, tham vấn, phát huy vai trò  của cộng đồng dân cư trong các hoạt động bảo vệ môi trường 

Thời gian qua, cộng đồng dân cư đã thể hiện vai trò ngày càng quan trọng  trong công tác bảo vệ môi trường, tiêu biểu nhất là thông qua việc hình thành các mô hình cộng đồng tham gia bảo vệ môi trường hiệu quả. Sự tham gia của  cộng đồng dân cư trong việc thu thập, cung cấp thông tin về bảo vệ môi trường;  tham gia đánh giá kết quả bảo vệ môi trường của doanh nghiệp. Tuy nhiên, Luật  Bảo vệ môi trường năm 2014 chưa quy định cộng đồng dân cư là một chủ thể  trong công tác bảo vệ môi trường, vì vậy chưa đẩy mạnh, phát huy được vai trò  quan trọng của cộng đồng dân cư trong công tác bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ  môi trường năm 2020 đã bổ sung “cộng đồng dân cư" vào phạm vi điều chỉnh và  đối tượng áp dụng nhằm khẳng định vị trí, vai trò của nhóm đối tượng quan  trọng này trong công tác bảo vệ môi trường cũng như thực hiện một trong những  mục tiêu xuyên suốt của Luật là bảo vệ sức khỏe người dân, đảm bảo người dân  được sống trong môi trường trong lành. 

Bên cạnh đó, nhằm tạo thuận lợi cho cộng đồng dân cư phát huy được vai  trò của mình trong công tác bảo vệ môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm  2020 đã bổ sung quy định thiết lập hệ thống trực tuyến tiếp nhận, xử lý, trả lời  phản ánh, kiến nghị, tham vấn của tổ chức, cá nhân và cộng đồng dân cư về bảo  vệ môi trường, qua đó giúp cộng đồng dân cư có thể tham gia giám sát hoạt  động bảo vệ môi trường thông qua công nghệ thông tin, tương tác các ứng dụng  thông minh trên điện thoại di động. 

Vấn đề công khai thông tin đã được quy định xuyên suốt, thống nhất trong  Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 theo các nội dung cụ thể về bảo vệ môi  trường, cùng với một khoản riêng quy định việc cung cấp, công khai thông tin  về môi trường. Cụ thể, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung nguyên tắc  hoạt động bảo vệ môi trường phải được công khai, minh bạch; quy định rõ trách  nhiệm công khai thông tin liên quan đến chất lượng môi trường không khí, chất  lượng môi trường đất, chất thải nguy hại, kết quả quan trắc chất thải; chủ trương  của Nhà nước là khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia đóng góp, cung cấp  thông tin về môi trường; trách nhiệm của Bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân  dân cấp tỉnh và của chủ dự án, cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu sản xuất, kinh  doanh tập trung, cụm công nghiệp trong việc cung cấp, công khai thông tin về  môi trường. 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 lần đầu tiên quy định việc công khai danh sách hội đồng thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường, dành một  Điều quy định công khai thông tin và sự tham gia của cộng đồng trong phòng  ngừa, ứng phó sự cố môi trường. Việc công bố, công khai quyết định phê duyệt  kết quả thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường của cơ quan thẩm định,  công khai báo cáo đánh giá tác động môi trường sau khi được phê duyệt kết quả  thẩm định của chủ dự án, nội dung báo cáo đề xuất cấp giấy phép môi trường,  trừ thông tin liên quan đến bí mật nhà nước, bí mật của doanh nghiệp theo quy  định của pháp luật để lấy ý kiến của các bên liên quan cũng đã được quy định cụ  thể trong Luật. Hình thức công khai được thực hiện thông qua cổng thông tin  của cơ quan, tổ chức, trên các phương tiện thông tin đại chúng hoặc các hình  thức khác, bảo đảm thuận tiện cho những đối tượng có liên quan tiếp nhận thông  tin; giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung và việc quản lý thông tin về môi trường; trình tự, thủ tục, thời điểm và hình thức cung cấp, công khai thông tin về  môi trường. 

Lần đầu tiên, trách nhiệm của chủ dự án trong việc tham vấn cộng đồng  dân cư, được quy định ngay từ khi lập báo cáo đánh giá tác động môi trường.  Trong đó, đã quy định rõ trách nhiệm thực hiện tham vấn, đối tượng tham vấn,  nội dung tham vấn chủ yếu, hình thức tham vấn trong quá trình thực hiện đánh  giá tác động môi trường; kết quả tham vấn cộng đồng dân cư, cơ quan, tổ chức  liên quan là thông tin quan trọng để chủ dự án nghiên cứu đưa ra giải pháp giảm  thiểu tác động của dự án đối với môi trường và hoàn thiện báo cáo đánh giá tác  động môi trường của dự án. Trong quá trình lập hồ sơ đề nghị cấp Giấy phép  môi trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã quy định trách nhiệm  của chủ dự án trong việc tham vấn ý kiến các bên có liên quan. 

5. Thay đổi phương thức quản lý môi trường đối với dự án đầu tư theo  các tiêu chí môi trường; kiểm soát chặt chẽ dự án có nguy cơ tác động xấu  đến môi trường mức độ cao, thực hiện hậu kiểm đối với các dự án có công  nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường; cắt giảm thủ tục hành chính 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã thể hiện sự thay đổi mạnh mẽ trong  tư duy quản lý môi trường thông qua thể chế hóa chính sách phát triển dựa trên  quy luật tự nhiên, không hy sinh môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế; bảo  vệ môi trường không chỉ là phòng ngừa, kiểm soát, xử lý chất thải; các hoạt  động sản xuất, phát triển phải hài hòa với tự nhiên, khuyến khích bảo vệ và phát  triển tự nhiên. Đồng thời, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đặt ra các tiêu  chuẩn, quy chuẩn môi trường nhằm thực hiện mục tiêu bảo đảm người dân Việt  Nam được hưởng chất lượng môi trường ngang bằng với các nước trên thế giới  và cũng, hài hòa với quy định của quốc tế để góp phần thực hiện các cam kết  quốc tế của Việt Nam về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu. Lần  đầu tiên, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 tiếp cận phương pháp quản lý môi  trường xuyên suốt, khoa học đối với dự án đầu tư dựa trên các tiêu chí môi  trường; sàng lọc, không khuyến khích các dự án không tuân theo quy luật tự  nhiên, chiếm dụng lớn diện tích rừng, đất lúa, tác động đến các di sản thiên  nhiên, khu bảo tồn; áp dụng công cụ quản lý môi trường phù hợp theo từng giai  đoạn từ việc xây dựng chiến lược, quy hoạch đến thực hiện dự án đầu tư. 

Theo đó dự án đầu tư được phân thành 04 nhóm: có nguy cơ tác động xấu  đến môi trường mức độ cao, có nguy cơ, ít có nguy cơ hoặc không có nguy cơ  tác động xấu đến môi trường. Tương ứng với từng đối tượng dự án cụ thể, cơ  quan quản lý nhà nước về môi trường sẽ áp dụng các cơ chế quản lý phù hợp, cụ  thể là: 

- Quy định chỉ đối tượng có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ  cao (Nhóm I) mới phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường. Quy định này nhằm  khắc phục các hạn chế, bất cập của pháp luật hiện hành, gồm: Giảm thủ tục hành  chính cho nhiều nhà đầu tư, theo đó các dự án không thuộc Nhóm I sẽ không phải đánh giá sơ bộ tác động môi trường nhằm tiết kiệm được thời gian và chi  phí. 

- Áp dụng đầy đủ các công cụ môi trường để quản lý, sàng lọc dự án đầu tư  có nguy cơ tác động xấu đến môi trường mức độ cao (đánh giá sơ bộ tác động  môi trường, cấp giấy phép môi trường nếu phát sinh chất thải); đối với các dự án  áp dụng công nghệ tiên tiến và thân thiện môi trường được cấp giấy phép môi  trường ngay từ giai đoạn nghiên cứu khả thi và tổ chức hậu kiểm (thông qua  thanh tra, kiểm tra) khi dự án đi vào hoạt động hoặc chỉ phải đăng ký môi trường  (không phải là thủ tục hành chính, được thực hiện bằng hình thức trực tuyến,  đơn giản) tại Ủy ban nhân dân cấp xã. Bên cạnh đó, Luật Bảo vệ môi trường  năm 2020 cũng cải cách mạnh mẽ thủ tục hành chính thông qua việc tích hợp  toàn bộ các giấy phép, giấy xác nhận về môi trường vào chung 01 giấy phép môi  trường và bãi bỏ các giấy phép có liên quan; 

- Xác lập lại đúng vai trò hoạt động quan trắc chất thải của doanh nghiệp,  Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định các đối tượng xả nước thải, bụi, khí  thải lớn ra môi trường phải quan trắc định kỳ; đối tượng phải quan trắc tự động,  liên tục bao gồm các cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường  với lưu lượng phát thải trung bình trở lên và cơ sở không thuộc loại hình có  nguy cơ gây ô nhiễm môi trường với lưu lượng phát thải lớn, các khu, cụm công  nghiệp. Đối tượng, thông số, tần suất quan trắc cụ thể sẽ do Chính phủ quy định  để phù hợp với điều kiện phát triển khoa học, công nghệ và yêu cầu bảo vệ môi  trường trong từng thời kỳ. 

6. Định chế nội dung sức khỏe môi trường; bổ sung nhiều giải pháp  bảo vệ các thành phần môi trường, đặc biệt là môi trường không khí, môi  trường nước 

Nội dung sức khỏe môi trường tuy không có quy định riêng nhưng đã được  định chế trong toàn bộ Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, thông qua việc bảo vệ  các thành phần môi trường, qua đó bảo vệ sức khỏe người dân, bảo đảm quyền  mọi người được sống trong môi trường trong lành. Luật Bảo vệ môi trường năm  2020 đã bổ sung nội dung quản lý các chất ô nhiễm có tác động trực tiếp đến sức  khỏe con người; quy định rõ trách nhiệm của Bộ Y tế, các Bộ, cơ quan ngang  bộ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong theo dõi, kiểm soát, phòng ngừa các chất ô  nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người cũng như đánh giá mối quan hệ giữa  sức khỏe môi trường với sức khỏe con người, đặc biệt là mối quan hệ giữa ô  nhiễm môi trường với các loại bệnh dịch mới. 

Riêng ô nhiễm không khí và môi trường nước mặt đang là vấn đề bức xúc  tại các lưu vực sông và đô thị lớn của Việt Nam. Tuy nhiên, hiện nay hành lang  pháp lý chưa đầy đủ để quản lý chất lượng môi trường không khí, chất lượng  môi trường nước và thực hiện các biện pháp ứng phó khẩn cấp với tình trạng ô  nhiễm không khí tại các đô thị lớn. Để giải quyết vấn đề bức xúc nêu trên, Luật  Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định việc lập và thực hiện kế hoạch quản lý  chất lượng môi trường nước mặt, môi trường không khí nhằm nâng cao hiệu quả bảo vệ các thành phần môi trường; đồng thời quy định về tiêu chí và phân loại  khu vực ô nhiễm môi trường đất, quy định nội dung về xử lý, cải tạo và phục hồi  môi trường đất. 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã quy định rõ trách nhiệm của Ủy  ban nhân dân cấp tỉnh trong việc xây dựng, phê duyệt và tổ chức thực hiện kế  hoạch quản lý chất lượng môi trường không khí; đánh giá, theo dõi chất lượng  môi trường không khí và công khai thông tin; cảnh báo cho cộng đồng và triển  khai các biện pháp xử lý trong trường hợp chất lượng môi trường không khí bị ô  nhiễm; tổ chức thực hiện biện pháp khẩn cấp trong trường hợp chất lượng môi  trường không khí bị ô nhiễm nghiêm trọng. 

Không chỉ được quy định ở các nội dung về bảo vệ chất lượng môi trường  không khí, đất, nước, việc bảo vệ các thành phần môi trường này còn được thể  hiện tại nhiều nội dung có liên quan trong Luật Bảo vệ môi trường năm 2020  như các nội dung về quản lý nước thải, quản lý bụi, khí thải và các chất ô nhiễm  khác cũng như các nội dung về quản lý chất thải rắn (sẽ góp phần giảm tác động  đến môi trường đất, nước và không khí), quan trắc các thành phần môi trường… 

7. Thúc đẩy phân loại rác thải tại nguồn; định hướng cách thức quản  lý, ứng xử với chất thải, góp phần thúc đẩy kinh tế tuần hoàn ở Việt Nam 

Hiện nay tỷ lệ chôn lấp rác thải ở Việt Nam còn cao, một trong các nguyên  nhân là do rác thải chưa được phân loại dẫn đến khó khăn trong xử lý. Để khắc  phục tình trạng này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã quy định việc thu phí  rác thải dựa trên khối lượng hoặc thể tích thay cho việc tính bình quân theo hộ  gia đình hoặc đầu người như hiện nay. Cơ chế thu phí này sẽ góp phần thúc đẩy  người dân phân loại, giảm thiểu rác thải phát sinh tại nguồn do nếu không thực  hiện việc này thì chi phí xử lý rác thải phải nộp sẽ cao, thông qua quy định rác  thải sinh hoạt phải được phân làm 03 loại: 

- Chất thải rắn có khả năng tái sử dụng, tái chế;  

- Chất thải thực phẩm; 

- Chất thải rắn sinh hoạt khác.  

Bộ Tài nguyên và Môi trường đã nghiên cứu kỹ lưỡng mô hình và kinh  nghiệm của các quốc gia trên thế giới hiện đang thực hiện rất thành công việc  thu phí xử lý rác thải qua hình thức bán bao bì, thiết bị đựng rác như Nhật Bản,  Hàn Quốc và các quốc gia phát triển khác. Để bảo đảm tính khả thi của cơ chế  này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra một số quy định như: 

- Căn cứ điều kiện kinh tế - xã hội của địa phương, Ủy ban nhân dân cấp  tỉnh quyết định việc phân loại cụ thể chất thải rắn sinh hoạt với thời hạn áp dụng  chậm nhất là ngày 31/12/2024;  

- Tại các điểm tập kết rác thải, nếu phát hiện việc phân loại không đúng  quy định thì đơn vị thu gom, vận chuyển có quyền từ chối thu gom, vận chuyển và thông báo cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra, xác định hộ gia đình, cá nhân  vi phạm và xử lý nghiêm (thông qua hệ thống camera giám sát);  

- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức chính trị - xã hội các cấp vận động  cộng đồng dân cư, hộ gia đình, cá nhân thực hiện phân loại chất thải rắn sinh  hoạt tại nguồn. Cộng đồng dân cư, tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm giám  sát việc phân loại chất thải rắn sinh hoạt của các hộ gia đình, cá nhân;  

- Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm kiểm tra việc tuân thủ, xử lý hoặc  chuyển cấp có thẩm quyền xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về quản lý chất  thải rắn sinh hoạt theo quy định. 

Ngoài ra, rác thải sinh hoạt phát sinh từ hộ gia đình, cá nhân khu vực nông  thôn sau khi phân loại được khuyến khích tận dụng tối đa lượng chất thải thực  phẩm làm phân bón hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi để phù hợp với điều kiện  nông thôn tại Việt Nam. 

Bên cạnh đó, nhằm hướng tới phát triển kinh tế tuần hoàn, tăng cường tái  chế, tái sử dụng phế liệu trong nước để hạn chế việc nhập khẩu phế liệu làm  nguyên liệu sản xuất, ngoài quy định trách nhiệm phân loại chất thải rắn công  nghiệp phát sinh từ cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thành các loại gồm: 

- Nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường được tái sử dụng, tái chế  làm nguyên liệu sản xuất;  

- Nhóm chất thải rắn đáp ứng tiêu chuẩn, quy chuẩn, hướng dẫn kỹ thuật  được sử dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng và san lấp mặt bằng;  

- Nhóm chất thải rắn công nghiệp thông thường phải xử lý. 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 lần đầu tiên đã quy định trách nhiệm  mở rộng của tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu các sản phẩm, bao bì có khả  năng tái chế/khó có khả năng tái chế phải thu hồi với tỷ lệ và quy cách bắt buộc  hoặc thông qua hợp đồng dịch vụ hoặc cơ chế đóng góp tài chính để hỗ trợ tái  chế sản phẩm, bao bì do mình sản xuất, nhập khẩu. 

8. Quy định chế định về thẩm quyền quản lý nhà nước dựa trên  nguyên tắc quản lý tổng hợp, thống nhất, một việc chỉ giao cho một cơ quan  chủ trì thực hiện; phân cấp triệt để cho địa phương 

Việc thực hiện song song thủ tục cấp giấy phép, giấy xác nhận về môi  trường (do cơ quan quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường thực hiện) với cấp  phép xả nước thải vào công trình thủy lợi (do cơ quan quản lý nhà nước về công  trình thủy lợi thực hiện) trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, cụ  thể là: một đối tượng là nước thải của doanh nghiệp xả thải vào công trình thủy  lợi tiếp tục phải thực hiện hai thủ tục hành chính có nhiều nội dung tương đồng;  không bảo đảm nguyên tắc quản lý tổng hợp về tài nguyên nước; phân tán chức  năng quản lý nhà nước đối với đối tượng là nước thải xả vào công trình thủy lợi;  việc kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm hành vi xả nước thải vượt quy chuẩn kỹ  thuật vào công trình thủy lợi do các cơ quan quản lý nhà nước về thủy lợi không được kịp thời, thường xuyên, hiệu quả (do pháp luật về xử phạt vi phạm hành  chính trong lĩnh vực thủy lợi không có chế tài xử lý hành vi này). 

Để khắc phục vấn đề này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bãi bỏ thủ  tục cấp giấy phép xả nước thải vào nguồn nước, xả nước thải vào công trình  thủy lợi mà lồng ghép nội dung này trong giấy phép môi trường nhằm thống  nhất trách nhiệm, thẩm quyền và nguyên tắc quản lý tổng hợp tài nguyên nước;  đồng thời giảm thủ tục hành chính mạnh mẽ cho doanh nghiệp. Song song với  chế định này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã bổ sung trách nhiệm,  thẩm quyền tham gia, phản biện và đồng thuận của cơ quan quản lý công trình  thủy lợi ngay từ giai đoạn đánh giá tác động môi trường cho đến khi cấp giấy  phép môi trường đối với cơ sở xả nước thải vào công trình thủy lợi nhằm tăng  cường công tác phối hợp của các cơ quan. 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã phân cấp mạnh mẽ cho địa phương  thông qua chế định giao UBND cấp tỉnh chủ trì, phối hợp với các bộ có liên  quan thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường đối với các dự án thuộc  thẩm quyền phê duyệt chủ trương đầu tư, quyết định đầu tư của các Bộ quản lý  công trình xây dựng chuyên ngành (quy định hiện hành phân cấp các Bộ, ngành  đều có thể thẩm định báo cáo đánh giá tác động môi trường ) đồng thời quy định  các bộ có liên quan có trách nhiệm phối hợp với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong  quá trình thực hiện nhằm bảo đảm hiệu quả. Quy định này sẽ bảo đảm quản lý  thống nhất tại địa phương, thuận lợi cho công tác kiểm tra, giám sát, cấp phép  sau này và phù hợp với xu hướng phân cấp cho địa phương như hệ thống pháp  luật hiện hành. 

9. Cụ thể chế định về kiểm toán môi trường nhằm tăng cường năng  lực, hiệu quả quản lý môi trường của doanh nghiệp 

Đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất nhằm đánh giá mức độ hiệu quả  sử dụng tiết kiệm tài nguyên, quản lý chất thải, kiểm soát ô nhiễm và bảo vệ môi  trường, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung nội dung về kiểm toán  môi trường nhằm điều chỉnh hoạt động kiểm toán trong nội bộ tổ chức, cơ sở  sản xuất, kinh doanh, dịch vụ do đơn vị tự thực hiện hoặc thông qua dịch vụ  kiểm toán. Mục đích của hoạt động này nhằm tăng cường năng lực quản lý môi  trường của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp nhận biết lỗ hổng trong quản lý  môi trường và có giải pháp điều chỉnh hoạt động quản lý môi trường được hiệu  quả hơn. 

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 cũng đã bổ sung quy định Kiểm toán  nhà nước thực hiện kiểm toán trong lĩnh vực môi trường theo quy định của Luật  Kiểm toán nhà nước và pháp luật có liên quan. 

10. Cụ thể hóa các quy định về ứng phó biến đổi khí hậu, thúc đẩy  phát triển thị trường các-bon trong nước 

Chương IV Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã quy định về ứng phó biến đổi khí hậu. Tuy nhiên, một số nội dung đang chồng lấn với các điều khoản 

trong các chương khác của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 (nghiên cứu khoa  học, quản lý chất thải, …), chưa cụ thể nội dung thích ứng biến đổi khí hậu, do  vậy, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung các quy định về thích ứng  với biến đổi khí hậu, giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, bảo vệ tầng ô-zôn, trong  đó xác định nội dung và trách nhiệm của Bộ Tài nguyên và Môi trường, các Bộ,  ngành liên quan và địa phương về thích ứng với biến đổi khí hậu và giảm nhẹ  phát thải khí nhà kính; bổ sung quy định về lồng ghép nội dung ứng phó với  biến đổi khí hậu vào hệ thống chiến lược, quy hoạch, thực hiện cam kết quốc tế  về biến đổi khí hậu và bảo vệ tầng ô-dôn. 

Đặc biệt, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã lần đầu tiên chế định về tổ  chức và phát triển thị trường các-bon như là công cụ để thúc đẩy giảm phát thải  khí nhà kính trong nước, góp phần thực hiện đóng góp về giảm nhẹ phát thải khí  nhà kính do Việt Nam cam kết khi tham gia Thỏa thuận Paris về biến đổi khí  hậu. Trong đó, quy định rõ đối tượng được phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà  kính và có quyền trao đổi, mua bán trên thị trường các-bon trong nước; căn cứ  xác định hạn ngạch phát thải khí nhà kính; trách nhiệm của các cơ quan quản lý,  tổ chức liên trong trong việc phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính; lộ trình  và thời điểm triển khai thị trường các-bon trong nước để phù hợp với điều kiện  kinh tế - xã hội của đất nước và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ  nghĩa Việt Nam là thành viên. 

11. Hoàn thiện hành lang pháp lý bảo vệ di sản thiên nhiên phù hợp  với pháp luật quốc tế về di sản thế giới, đáp ứng yêu cầu của quá trình hội  nhập quốc tế 

Theo Công ước về bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới (Công ước  di sản thế giới), di sản thế giới được chia làm 02 loại bao gồm: di sản thiên  nhiên và di sản văn hóa có các đặc điểm, tiêu chí hoàn toàn khác nhau (tiêu chí  của di sản thiên nhiên gắn với các yếu tố của tự nhiên, trong đó tiêu chí của di  sản văn hóa gắn với yếu tố con người). Việt Nam đã tham gia Công ước này từ  năm 1987, tuy nhiên, hệ thống pháp luật của Việt Nam về quản lý di sản thiên  nhiên chưa nội luật hóa đầy đủ và tương thích với nội dung của Công ước. Các  quy định về đối tượng là di sản thiên nhiên của Việt Nam đang được quy định  tản mạn trong một số pháp luật chuyên ngành như Luật Đa dạng sinh học (khu  bảo tồn đất ngập nước), Luật Lâm nghiệp (khu bảo tồn là rừng đặc dụng), Luật  Thủy sản (khu bảo tồn biển), thậm chí còn được quy định trong pháp luật về di  sản văn hóa (Luật Di sản văn hóa quy định di sản văn hóa còn bao gồm cả danh  lam thắng cảnh là một đối tượng của di sản thiên nhiên), do đó, chưa bao quát  được toàn bộ các đối tượng là di sản thiên nhiên cần bảo vệ (như công viên địa  chất toàn cầu, khu dự trữ sinh quyển, khu Ramsar –khu đất ngập nước có tầm  quan trọng quốc tế, vườn di sản ASEAN), đồng thời thiếu quy định về việc xác  lập cũng như chế độ quản lý các di sản thiên nhiên cấp quốc tế này. Điều này tạo  ra rào cản trong quá trình hội nhập và thực hiện Công ước di sản thế giới mà  Việt Nam đã tham gia cũng như phát sinh nhiều vấn đề chưa được xử lý trong  thực tiễn quản lý hiện nay. 

Để khắc phục các bất cập này, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã đưa ra  các quy định về tiêu chí xác lập di sản thiên nhiên dựa trên cơ sở các tiêu chí của  quốc tế và thực tiễn điều kiện Việt Nam hiện nay trong đó đối với các đối tượng  là di sản thiên nhiên đã được quy định trong pháp luật về lâm nghiệp, thủy sản,  đa dạng sinh học và di sản văn hóa thì vẫn thực hiện theo các quy định này để  tránh xáo trộn, chồng chéo. Đồng thời, quy định việc điều tra, đánh giá, quản lý  và bảo vệ môi trường di sản thiên nhiên để bảo vệ, phát huy giá trị bền vững di  sản thiên nhiên ở nước ta. 

12. Tạo lập chính sách phát triển các mô hình tăng trưởng kinh tế bền  vững, thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, phục hồi và phát triển nguồn vốn tự  nhiên 

Phát triển kinh tế bền vững thông qua việc thúc đẩy các mô hình kinh tế  xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế ít phát thải các-bon, đầu tư vào vốn tự nhiên  đang là xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế của các nước trên thế giới hiện  nay, nhất là các nước đang phát triển. Các mô hình này tập trung vào việc đầu tư  sản xuất, tiêu dùng, xuất nhập khẩu, phân phối và kinh doanh các sản phẩm,  hàng hóa và dịch vụ hướng tới tối ưu hóa sử dụng nguyên liệu, vật liệu, năng  lượng và chất thải, thân thiện với môi trường; đầu tư vào vốn tự nhiên. 

Ở nước ta, nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về thúc đẩy  tăng trưởng xanh, phát triển nền kinh tế tuần hoàn, hướng tới phát triển bền  vững cũng đã được ban hành nhưng còn thiếu cơ sở pháp lý tạo nền tảng cho  thúc đẩy các mô hình kinh tế này. Vốn tự nhiên là các nguồn tài nguyên thiên  nhiên, bao gồm tài nguyên đất, tài nguyên nước, tài nguyên rừng, nguồn lợi thủy  sản, khoáng sản, nhiên liệu hóa thạch, các nguồn năng lượng tự nhiên và các  dịch vụ hệ sinh thái tự nhiên. Cũng giống như các dạng vốn khác (vốn vật chất,  vốn tài chính và vốn con người), vốn tự nhiên cũng có thể bị suy giảm và suy  thoái do quá trình sản xuất và tiêu dùng. Tuy nhiên, trong thời gian qua, với mô  hình tăng trưởng trước đây, chúng ta mới chỉ tập trung tích lũy nhanh vốn vật  chất, tài chính và con người mà thiếu đi sự quan tâm tới sự suy giảm, cạn kiệt  của vốn tự nhiên, tạo ra những rủi ro và thách thức lớn cho thế hệ tương lai. 

Để giải quyết vấn các vấn đề này, đồng thời tạo động lực phát triển bền  vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng và sự thịnh vượng quốc gia, Luật Bảo  vệ môi trường năm 2020 đã bổ sung một chương về các công cụ kinh tế và  nguồn lực cho bảo vệ môi trường. Trong đó, đã bổ sung các chính sách về phát  triển ngành công nghiệp môi trường, dịch vụ môi trường, sản phẩm, dịch vụ thân  thiện môi trường; ưu tiên thực hiện mua sắm xanh đối với dự án, nhiệm vụ sử  dụng ngân sách nhà nước; thúc đẩy việc khai thác, sử dụng và phát triển vốn tự  nhiên; đặc biệt là thúc đẩy kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, bổ sung chính sách về  tín dụng xanh, trái phiếu xanh để huy động đa dạng các nguồn lực xã hội cho  bảo vệ môi trường.

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ  VI PHẠM HÀNH CHÍNH

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH 

1. Cơ sở chính trị, pháp lý 

Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu: “Hoàn  thiện hệ thống pháp luật, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất, công khai, minh  bạch, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế”. “Trong  những năm tới, đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật gắn với tổ chức thi hành  pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội  chủ nghĩa. Bảo đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là  công cụ để nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước”. Trên cơ  sở chủ trương, định hướng của Đảng, Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, cải cách hành chính, cải cách tư pháp, thực hiện việc quy phạm  hóa các quyền tự do dân chủ, quyền con người, quyền công dân bằng các quy  định của pháp luật. 

Xử lý vi phạm hành chính nói chung và xử phạt vi phạm hành chính nói  riêng là công cụ quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước nhằm duy trì trật  tự, kỷ cương trong quản lý hành chính của Nhà nước. Đây cũng là vấn đề trực  tiếp liên quan đến đời sống nhân dân, có ảnh hưởng lớn đến quyền và lợi ích  hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Hiến pháp  năm 2013 thì “quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy  định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia,  trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Do vậy, việc  thể chế kịp thời, đầy đủ đường lối của Đảng, cụ thể hóa quy định của Hiến pháp  về quyền con người, quyền công dân, tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định còn  hạn chế, vướng mắc để khắc phục những bất cập trong thi hành Luật Xử lý vi  phạm hành chính là cần thiết. 

Theo Nghị quyết số 78/2019/QH14 ngày 11/6/2019 của Quốc hội về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh Chương trình xây  dựng luật, pháp lệnh năm 2019 thì dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của  Luật Xử lý vi phạm hành chính sẽ trình Quốc hội cho ý kiến tại kỳ họp thứ nhất  và xem xét thông qua vào kỳ họp thứ hai năm 2020. Trên cơ sở Nghị quyết số 78/2019/QH14, ngày 08/7/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định  số 842/QĐ-TTg phân công Bộ Tư pháp chủ trì soạn thảo dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. 

2. Cơ sở thực tiễn 

Sau 06 năm triển khai thi hành, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật Xử lý vi phạm hành chính đã phát sinh một số vướng mắc, bất cập lớn, đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ với các văn bản pháp luật  khác có liên quan và phù hợp với tình hình thực tiễn, cụ thể: 

- Đối với công tác xử phạt vi phạm hành chính, khó khăn, vướng mắc chủ yếu tập trung vào những vấn đề như: Mức phạt tiền tối đa trong một số lĩnh vực  còn quá thấp, thiếu tính răn đe; sự thay đổi tên gọi, chức năng, nhiệm vụ của các  chức danh thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính dẫn đến thay đổi về thẩm  quyền xử phạt; thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm bị giới hạn  bởi thẩm quyền phạt tiền dẫn đến tình trạng dồn quá nhiều vụ việc lên cơ quan  cấp trên; các quy định về thời hạn, thời hiệu thực hiện các công việc chưa phù  hợp thực tế; thủ tục xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính còn nhiều  bất cập, khiến cho việc xử lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ, tịch thu gặp nhiều  khó khăn; việc thi hành và cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành  chính cũng có những hạn chế nhất định do các quy định của Luật liên quan đến  vấn đề này chưa đầy đủ, thiếu thống nhất… 

- Đối với việc áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, khó khăn, vướng  mắc chủ yếu tập trung vào những vấn đề như việc quy định điều kiện, đối tượng  áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo Luật Xử lý vi phạm hành chính  quá chặt chẽ khiến cho việc triển khai công tác này trên thực tế rất hạn chế (đặc  biệt là quy định “02 lần trong 06 tháng” thực hiện hành vi vi phạm); thời gian  lập hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc bị kéo  dài không cần thiết do đối tượng phải trải qua biện pháp tiền đề giáo dục tại xã,  phường, thị trấn; các quy định liên quan đến trình tự, thủ tục áp dụng biện pháp  xử lý hành chính còn rườm rà, nhiều quy định chưa thống nhất; một số quy định  thiếu tính khả thi (ví dụ Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính về việc giao tổ chức xã hội quản lý người có hành vi vi phạm pháp luật trong thời gian lập hồ sơ  đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính do Tòa án nhân dân xem xét,  quyết định)... 

- Đối với công tác quản lý thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính,  việc quy định chế độ báo cáo định kỳ 06 tháng gây nhiều khó khăn cho các Bộ,  ngành, địa phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng  hợp báo cáo. 

Xuất phát từ những vướng mắc, bất cập nêu trên, việc sửa đổi Luật Xử lý vi  phạm hành chính là hết sức cần thiết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu lực, hiệu quả quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trên tất cả các  lĩnh vực. 

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT  SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT XỬ LÝ VI PHẠM  HÀNH CHÍNH 

1. Mục đích 

Việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm  hành chính nhằm tiếp tục hoàn thiện các cơ chế, chính sách, trình tự, thủ tục trong pháp luật về xử lý vi phạm hành chính và khắc phục tối đa những khó  khăn, vướng mắc, bất cập phát sinh trong quá trình thi hành, áp dụng pháp luật  về xử lý vi phạm hành chính, đổi mới cơ bản, góp phần bảo đảm hiệu lực, hiệu  quả của công tác này trên thực tế, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn xã hội. 

Theo đó, ở thời điểm hiện tại, việc xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính chỉ tập trung sửa đổi, bổ sung những  quy định còn hạn chế, có nhiều vướng mắc nhất khi áp dụng trên thực tế (không  sửa đổi một cách toàn diện nên không xây dựng Luật thay thế Luật Xử lý vi  phạm hành chính ). 

2. Quan điểm chỉ đạo xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của  Luật Xử lý vi phạm hành chính 

a) Thể chế hóa các chủ trương, chính sách của Đảng về cải cách hệ thống  pháp luật, cải cách tư pháp và cải cách hành chính được xác định trong Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng  và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm  2020, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược  cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng như thể chế hóa những chủ trương mới của  Đảng nêu tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, 6, 7 của Ban Chấp hành Trung  ương Đảng khóa XII. 

b) Sửa đổi, bổ sung các nội dung liên quan trực tiếp đến các khó khăn,  vướng mắc trong thực tiễn thi hành pháp luật xử lý vi phạm hành chính; chưa  sửa toàn diện Luật Xử lý vi phạm hành chính . 

c) Tăng cường tính công khai, minh bạch, hiệu quả và bảo đảm dân chủ trong trình tự, thủ tục xử lý vi phạm hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp  pháp của người dân, đặc biệt là người chưa thành niên. Nâng cao hiệu lực, hiệu  quả thi hành, áp dụng pháp luật và quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý  vi phạm hành chính trong thực tiễn. 

d) Bảo đảm tính tương thích của các quy định pháp luật về xử lý vi phạm  hành chính với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, đặc biệt là một  số công ước quốc tế về quyền con người; bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là pháp luật về xử lý vi phạm hành chính với  pháp luật về phòng, chống ma túy, pháp luật hình sự. 

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG DỰ ÁN LUẬT 

Thực hiện quy trình, thủ tục xây dựng văn bản quy phạm pháp pháp luật  theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, Bộ Tư  pháp đã triển khai các công việc sau: 

1. Tổ chức Hội nghị tổng kết thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính ngày  17/11/2017. 

2. Lập hồ sơ đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm  hành chính trình Chính phủ thông qua với 03 chính sách lớn sau đây:

- Chính sách 1: Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nhằm  nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động xử phạt vi phạm hành chính. 

- Chính sách 2: Hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tượng, trình tự,  thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành chính nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu  quả hoạt động áp dụng các biện pháp xử lý hành chính. 

- Chính sách 3: Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt  động quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. 

3. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ biên tập và tổ chức các cuộc họp Ban soạn  thảo, Tổ biên tập; các cuộc họp với Bộ, ngành và các cá nhân, tổ chức liên quan  về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính . 

4. Tổ chức nhiều cuộc hội thảo, hội nghị, tọa đàm trong quá trình lập Đề nghị xây dựng và quá trình xây dựng dự thảo Luật. 

5. Xây dựng, đăng tải dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm  hành chính, dự thảo Tờ trình Chính phủ trên Cổng Thông tin điện tử của Chính  phủ, Cổng Thông tin điện tử của Bộ Tư pháp; tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản  của các bộ, ngành, địa phương, các cơ quan, tổ chức khác có liên quan. 

6. Tổ chức thẩm định để cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính (Báo cáo thẩm định số 268/BC-BTP ngày 23/12/2019 của  Bộ Tư pháp). 

7. Trên cơ sở ý kiến thẩm định, Bộ Tư pháp đã tiến hành tiếp thu, chỉnh lý  và hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính trình  Chính phủ xem xét, báo cáo Quốc hội. 

8. Ngày 31/12/2019, Chính phủ đã thông qua Nghị quyết số 121/NQ-CP tại  Hội nghị Chính phủ với địa phương và Phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng  12/2019, trong đó, giao Bộ Tư pháp chủ trì, phối hợp với Văn phòng Chính phủ chỉnh lý, hoàn thiện dự án Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính,  Bộ trưởng Bộ Tư pháp thừa ủy quyền Thủ tướng Chính phủ, thay mặt Chính phủ ký Tờ trình và báo cáo Quốc hội về dự án Luật này. 

9. Ngày 21/01/2020, Chính phủ đã có Tờ trình số 26/TTr-CP báo cáo Quốc  hội về dự án Luật. 

10. Ngày 05/02/2020, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã tiến hành thẩm tra  sơ bộ; ngày 10/02/2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến đối  với dự án Luật. 

Dự thảo Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi, bổ sung một số quy định  chung tại Phần thứ nhất của Luật Xử lý vi phạm hành chính như: Quy định về giải thích từ ngữ “tái phạm” theo hướng loại trừ trường hợp hành vi vi phạm  hành chính là điều kiện để truy cứu trách nhiệm hình sự (một số tội phạm trong  Bộ luật Hình sự có cấu thành “đã bị xử phạt vi phạm hành chính mà còn vi  phạm”); quy định cụ thể về nguyên tắc xử phạt đối với từng hành vi trong  trường hợp “vi phạm hành chính nhiều lần”, trừ trường hợp Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng; bổ sung một số hành vi bị nghiêm cấm trong xử lý vi  phạm hành chính. 

IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT 

1. Bố cục của Luật 

Ngày 13/11/2020, Quốc hội khóa XIV, tại kỳ họp thứ 10 đã thông qua Luật  sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính. Luật có bố cục  gồm 4 Điều. Điều 1 là sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm  hành chính. Điều 2 bổ sung, thay thế, bỏ một số từ, cụm từ tại một số điều,  khoản, điểm của Luật. Điều 3 bãi bỏ một số điều, khoản của Luật và Điều 4 là  hiệu lực thi hành. 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính có  hiệu lực từ 01/01/2022.  

2. Những điểm mới cơ bản của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của  Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã  sửa đổi, bổ sung nội dung của 66/142 điều (trong đó 16 điều sửa đổi, bổ sung  toàn diện), sửa kỹ thuật 11/142 điều, bổ sung mới 04 điều, bãi bỏ 03 điều của  Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. 

2.1. Về những quy định chung 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã  sửa đổi, bổ sung một số quy định chung tại Phần thứ nhất của Luật Xử lý vi  phạm hành chính bao gồm: 

a) Khoản 1 Điều 1 Luật số 67/2020/QH14 đã sửa đổi, bổ sung khái niệm tái  phạm quy định tại khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính để bảo đảm  thống nhất với quy định của Bộ luật Hình sự, bảo đảm tính công bằng, khách  quan trong áp dụng pháp luật. Theo đó, tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị ra  quyết định xử phạt vi phạm hành chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là  chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện hành vi vi phạm hành  chính đã bị xử phạt; cá nhân đã bị ra quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành  chính nhưng chưa hết thời hạn được coi là chưa bị áp dụng biện pháp xử lý hành  chính mà lại thực hiện hành vi thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp xử lý hành  chính đó. 

b) Sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xử lý vi phạm hành chính đối với vi phạm  hành chính nhiều lần tại điểm d khoản 1 Điều 3 của Luật Xử lý vi phạm hành chính, cụ thể: 

“Chỉ xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do  pháp luật quy định. 

Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt một lần.

Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người  vi phạm đều bị xử phạt về hành vi vi phạm hành chính đó. 

Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính hoặc vi phạm hành  chính nhiều lần thì bị xử phạt về từng hành vi vi phạm, trừ trường hợp hành vi vi  phạm hành chính nhiều lần được Chính phủ quy định là tình tiết tăng nặng;”. 

Quy định này sẽ góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thi  hành thời gian qua liên quan đến quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 3 và điểm b  khoản 1 Điều 10 Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, bảo đảm thống nhất  trong áp dụng pháp luật trên thực tiễn 

c) Sửa đổi, bổ sung quy định liên quan đến thẩm quyền quy định về xử phạt  vi phạm hành chính và chế độ áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại Điều 4  Luật Luật Xử lý vi phạm hành chính: 

- So với Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, ngoài việc được giao  quy định hành vi vi phạm hành chính; hình thức xử phạt, mức xử phạt, biện  pháp khắc phục hậu quả đối với từng hành vi vi phạm hành chính; thẩm quyền  xử phạt, mức phạt tiền cụ thể theo từng chức danh và thẩm quyền lập biên bản  đối với vi phạm hành chính trong từng lĩnh vực quản lý nhà nước; Chính phủ còn được giao quy định hành vi vi phạm hành chính đã kết thúc và hành vi vi  phạm hành chính đang thực hiện; đối tượng bị xử phạt; việc thi hành các hình  thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả trong từng  lĩnh vực quản lý nhà nước. Quy định này sẽ góp phần bảo đảm tính thống nhất,  đồng bộ trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật (nghị định) xử phạt vi  phạm hành chính trong các lĩnh vực quản lý nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu  quả quản lý công tác thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính. 

- Biểu mẫu sử dụng trong xử lý vi phạm hành chính được thực hiện theo  quy định của Chính phủ.  

- Giao Ủy ban thường vụ Quốc hội, căn cứ quy định của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kiểm toán nhà nước và đối với hành vi  cản trở hoạt động tố tụng. 

d) Sửa đổi, bổ sung một số điểm của khoản 1 và khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý  vi phạm hành chính về thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính, theo đó: 

- Tăng thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hóa đơn lên 02  năm, sửa đổi tên gọi của một số lĩnh vực tại điểm a khoản 1 Điều 6 Luật Xử lý  vi phạm hành chính để bảo đảm thống nhất với Điều 24 Luật Xử lý vi phạm  hành chính, đồng thời, quy định rõ vi phạm hành chính về thuế thì thời hiệu xử 

phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về quản lý thuế. 

- Sửa đổi quy định về thời hiệu áp dụng các biện pháp xử lý hành chính tại  điểm a và điểm b khoản 2 Điều 6 Luật Xử lý vi phạm hành chính.

- Bổ sung quy định về việc tính thời hiệu trong trường hợp cá nhân cố tình  trốn tránh, cản trở việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính theo hướng thời hiệu  được tính lại kể từ thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở việc áp dụng  biện pháp xử lý hành chính. 

- Bổ sung một số hành vi vi phạm thường xảy ra trong quá trình áp dụng  pháp luật nhưng chưa được Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định là hành vi  bị nghiêm cấm tại Điều 12 Luật Xử lý vi phạm hành chính như: Xác định hành  vi vi phạm hành chính không đúng; áp dụng mức xử phạt không đúng, không  đầy đủ đối với hành vi vi phạm hành chính; không theo dõi, đôn đốc, kiểm tra,  tổ chức cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả.  Việc bổ sung quy định này căn cứ vào thực tiễn kiểm tra công tác thi hành pháp  luật về xử lý vi phạm hành chính thời gian qua, nhằm nâng cao năng lực, trách  nhiệm của người có thẩm quyền, góp phần bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong thi  hành công vụ và thực hiện đúng phương châm “Chính phủ kiến tạo”. 

2.2. Về mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước 

Trên cơ sở thực tiễn thi hành, mức phạt tiền tối đa của nhiều lĩnh vực theo  quy định hiện hành còn thấp, chưa đủ sức răn đe, chưa thực sự tương xứng với  tính chất, mức độ của hành vi vi phạm. So với Luật Xử lý vi phạm hành chính  hiện hành, mức phạt tiền tối đa trong các lĩnh vực quản lý nhà nước tại Luật sửa  đổi, bổ sung một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý  vi phạm hành chính được sửa đổi, bổ sung theo hướng: 

a) Tăng mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực như: Giao thông đường  bộ, phòng, chống tệ nạn xã hội tăng từ 40 đến 75 triệu; cơ yếu, quản lý và bảo vệ biên giới quốc gia, giáo dục từ 50 triệu đến 75 triệu; điện lực từ 50 triệu lên 100  triệu; bảo vệ quyền lợi người tiêu dung từ 100 triệu lên 200 triệu; báo chí từ 100  triệu lên 250 triệu đồng; kinh doanh bất động sản từ 150 triệu lên 500 triệu. Mức  phạt tiền tối đa trong Luật sửa đổi, bổ sung lần này được cân nhắc điều chỉnh  nâng lên phù hợp với tính chất xâm hại đến trật tự quản lý hành chính nhà nước  của một số lĩnh vực, bảo đảm ý nghĩa răn đe và phòng ngừa của chế tài xử phạt  vi phạm hành chính, đồng thời để bảo đảm phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội  hiện nay ở nước ta. 

b) Bổ sung quy định mức phạt tiền tối đa của một số lĩnh vực như: Tín  ngưỡng, đối ngoại là 30 triệu đồng; cứu nạn, cứu hộ là 50 triệu đồng; in; an toàn  thông tin mạng 100 triệu đồng; sở hữu trí tuệ 250 triệu… Bên cạnh đó, quy định  về mức phạt tối đa trong hoạt động kinh doanh theo phương thức đa cấp và hoạt  động xuất cảnh, nhập cảnh đã được lược bỏ vì kinh doanh theo phương thức đa  cấp là một hình thức kinh doanh thuộc lĩnh vực thương mại đã được quy định  mức phạt tiền tối đa là 100 triệu đồng; hoạt động xuất cảnh, nhập cảnh thuộc  lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội đã được quy định mức phạt tiền tối đa là  40 triệu đồng. 

c) Sửa đổi tên của một số lĩnh vực như: Lĩnh vực sản xuất, kinh doanh  giống vật nuôi, cây trồng thành trồng trọt; sản xuất, kinh doanh thức ăn chăn nuôi thành chăn nuôi; dạy nghề thành giáo dục nghề nghiệp; quản lý rừng, lâm  sản thành lâm nghiệp; thăm dò, khai thác dầu khí và các loại khoáng sản  khác thành hoạt động dầu khí và hoạt động khoáng sản khác; hạn chế cạnh  tranh thành cạnh tranh… 

2.3. Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính 

a) Sửa đổi, bổ sung tên gọi/bãi bỏ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt  vi phạm hành xuất phát từ việc một số cơ quan, đơn vị được sắp xếp lại tổ chức  bộ máy trong thời qua. Ví dụ một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm  hành chính thuộc lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội biên phòng, Cảnh sát  biển, Quản lý thị trường, Hải quan… 

b) Luật bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành  chính thuộc các lực lượng, cơ quan như kiểm ngư (Điều 43a); Ủy ban Cạnh  tranh quốc gia (Điều 45a); Kiểm toán nhà nước (Điều 48a)… Việc bổ sung thẩm  quyền xử phạt của chức danh này trong Luật Xử lý vi phạm hành chính là để xử 

phạt đối với các hành vi vi phạm hành chính khác để nhằm bảo đảm tính đầy đủ,  tính thống nhất, tránh chồng chéo. 

c) Luật sửa đổi, bổ sung Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 cũng đã  bổ sung thêm 08 nhóm chức danh có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện  vi phạm hành chính không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện; các chức  danh khác có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện có giá trị không vượt 

quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền. Chỉnh lý quy định về thẩm quyền áp  dụng hình thức tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính theo hướng: 

- Bên cạnh thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính  của các chức danh là cấp cuối cùng của mỗi lực lượng đã được Luật Xử lý vi  phạm hành chính hiện hành quy định, dự thảo Luật bổ sung thêm 08 nhóm chức  danh (chủ yếu thuộc các cơ quan được tổ chức theo ngành dọc ở cấp tỉnh hoặc  liên tỉnh) có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính  không phụ thuộc vào giá trị tang vật, phương tiện. 

- Các chức danh khác ở cấp cơ sở có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương  tiện có giá trị không vượt quá 02 lần mức tiền phạt theo thẩm quyền để vừa tháo  gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn thi hành (phát sinh quá nhiều vụ việc vi  phạm do trị giá tang vật phương tiện vi phạm vượt quá thẩm quyền phạt tiền nên  cơ quan cấp dưới phải chuyển lên cấp trên, dẫn đến tình trạng ùn tắc, quá tải,  không thể kịp thời xử lý các hành vi vi phạm bảo đảm đúng về thời hạn và trình  tự theo quy định của Luật), vừa bảo đảm quyền lực được kiểm soát và giới hạn,  tương xứng với nhiệm vụ được giao. 

d) Sửa đổi, bổ sung quy định cụ thể về trường hợp chức danh có sự thay  đổi về tên gọi nhưng không có sự thay đổi về nhiệm vụ, quyền hạn thì thẩm  quyền xử phạt của chức danh đó được giữ nguyên và trường hợp có sự thay đổi  về nhiệm vụ, quyền hạn (tên gọi được giữ nguyên hoặc có sự thay đổi) thì thẩm quyền xử phạt của chức danh đó do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 

đ) Sửa đổi, bổ sung quy định về giao quyền xử phạt theo hướng cấp trưởng  có thể giao cho cấp phó thực hiện thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính,  nhưng vẫn có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính. Trong thời gian được  giao quyền xử phạt vi phạm hành chính, cấp phó có quyền hạn như cấp trưởng  đối với phạm vi được giao, trừ quyền áp dụng biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính (cấp trưởng chỉ được thực hiện việc giao quyền áp dụng biện  pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính cho cấp phó trong trường hợp cấp  trưởng vắng mặt theo quy định tại Điều 123 của Luật Xử lý vi phạm hành  chính). 

2.4. Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính 

So với Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, Luật sửa đổi, bổ sung  một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung  một số quy định liên quan đến thủ tục xử phạt theo hướng tăng thời gian tiến  hành một số công việc, sửa đổi thủ tục thực hiện một số công việc bảo đảm tính  cụ thể, rõ ràng, phù hợp với thực tế, bảo đảm tính khả thi nhằm tháo gỡ những  vướng mắc, bất cập trong quá trình áp dụng pháp luật thời gian qua, cụ thể: 

a) Sửa đổi, bổ sung các quy định về lập biên bản vi phạm hành chính (Điều  58 Luật Xử lý vi phạm hành chính) theo hướng quy định nguyên tắc “phải kịp  thời lập biên bản” và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này. Trên cơ sở đó, Chính phủ quy định cụ thể về thời hạn lập biên bản để tháo gỡ khó khăn,  vướng mắc hiện nay, bảo đảm phù hợp với từng lĩnh vực quản lý nhà nước;  đồng thời, quy định cụ thể về địa điểm lập biên bản, nội dung biên bản và bổ 

sung quy định về việc lập biên bản vi phạm hành chính qua phương thức điện tử và giao Chính phủ quy định chi tiết nội dung này… 

b) Tăng thời hạn định giá tang vật, phương tiện vi phạm hành chính tại  khoản 3 Điều 60 Luật Xử lý vi phạm hành chính từ 24 giờ lên 48 giờ để bảo  đảm tính khả thi, phù hợp với thực tiễn, đồng thời, bảo đảm việc định giá cũng  như xác định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính chính xác. 

c) Sửa đổi, bổ sung quy định về các trường hợp và thủ tục giải trình tại  Điều 61 Luật Xử lý vi phạm hành chính nhằm bảo đảm tính khả thi trên thực tế.  Theo đó, đối với hành vi vi phạm hành chính mà pháp luật có quy định hình  thức xử phạt tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn  hoặc đình chỉ hoạt động có thời hạn hoặc quy định mức tối đa của khung tiền  phạt đối với hành vi đó từ 15.000.000 đồng trở lên đối với cá nhân, từ 30.000.000 đồng trở lên đối với tổ chức thì cá nhân, tổ chức vi phạm có quyền  giải trình trực tiếp hoặc bằng văn bản với người có thẩm quyền xử phạt vi phạm  hành chính. 

Về thời hạn giải trình, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi  phạm hành chính năm 2020 chỉ sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn đối với trường hợp giải trình bằng văn bản, theo đó, cá nhân, tổ chức vi phạm hành  chính phải gửi văn bản giải trình cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm  hành chính từ “trong thời hạn không quá 05 ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày  làm việc”, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính. Trường hợp vụ việc có 

nhiều tình tiết phức tạp thì người có thẩm quyền xử phạt có thể gia hạn nhưng  không quá 05 ngày làm việc theo đề nghị của cá nhân, tổ chức vi phạm. Đồng  thời, Luật quy định rõ việc gia hạn của người có thẩm quyền xử phạt phải bằng  văn bản. Đối với trường hợp giải trình trực tiếp, Luật sửa quy định về việc người  có thẩm quyền xử phạt phải thông báo bằng văn bản cho người vi phạm về thời  gian và địa điểm tổ chức phiên giải trình trực tiếp từ “trong thời hạn 05  ngày” thành “trong thời hạn 05 ngày làm việc”, kể từ ngày nhận được yêu cầu  của người vi phạm. 

Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu thực tiễn, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 đã bổ sung 01 khoản quy  định về trường hợp cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính không yêu cầu giải  trình nhưng trước khi hết thời hạn lại có yêu cầu giải trình thì người có thẩm  quyền xử phạt vi phạm hành chính có trách nhiệm xem xét ý kiến giải trình của  cá nhân, tổ chức vi phạm. 

d) Sửa đổi, bổ sung Điều 64 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng mở rộng lĩnh vực được sử dụng phương tiện, thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để phát hiện  vi phạm hành chính, bao gồm trật tự, an toàn giao thông, bảo vệ môi trường,  phòng cháy, chữa cháy, cứu nạn, cứu hộ, phòng, chống ma túy, phòng, chống  tác hại của rượu, bia và lĩnh vực khác do Chính phủ quy định sau khi được sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội… 

đ) Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính  năm 2020 đã sửa đổi, bổ sung quy định về tịch thu tang vật, phương tiện vi  phạm hành chính và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp  không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, hết thời hiệu thi hành, thời  hiệu cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo hướng: 

- Người có thẩm quyền không ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính  đối với những trường hợp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 1 Điều 65  Luật Xử lý vi phạm hành chính, nhưng vẫn phải ra quyết định tịch thu tang vật,  phương tiện vi phạm hành chính nếu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính  thuộc loại cấm tàng trữ, cấm lưu hành hoặc tang vật, phương tiện mà pháp luật  có quy định hình thức xử phạt tịch thu và áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả được quy định đối với hành vi vi phạm hành chính đó. 

- Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt vi phạm  hành chính (quy định tại khoản 1 Điều 74 Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì  không thi hành quyết định đó nữa, nhưng vẫn phải tịch thu tang vật, phương  tiện, áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả nếu quyết định xử phạt có áp dụng  hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, biện pháp  khắc phục hậu quả.

- Đối với trường hợp hết thời hiệu thi hành quyết định cưỡng chế (quy định  tại khoản 2a Điều 88 Luật Xử lý vi phạm hành chính) thì không thi hành quyết  định cưỡng chế đó, nhưng vẫn phải cưỡng chế tịch thu tang vật, phương tiện, áp  dụng biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp quyết định xử phạt có áp  dụng hình thức xử phạt tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, áp  dụng biện pháp khắc phục hậu quả. 

e) Sửa đổi, bổ sung quy định về thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm  hành chính tại Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính để khắc phục những  vướng mắc, bất cập phát sinh thời gian qua như: Hầu hết các bộ, ngành địa  phương đều cho rằng, thời hạn ra quyết định xử phạt theo quy định của Luật Xử 

lý vi phạm hành chính hiện hành (07 ngày) là quá ngắn, không bảo đảm tính khả thi, không phù hợp với thực tiễn, gây nhiều khó khăn cho người có thẩm quyền  xử phạt. Quy định về việc gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt vi phạm hành  chính gặp rất nhiều vướng mắc (đặc biệt là tiêu chí xác định thế nào là thủ trưởng cấp trên trực tiếp thực hiện việc gia hạn), gây khó khăn cho người có  thẩm quyền xử phạt, dẫn đến tình trạng có rất nhiều trường hợp bị quá thời hạn  ra quyết định xử phạt, ảnh hưởng đến hiệu lực, hiệu quả của công tác xử phạt vi  phạm hành chính. 

Do đó, Luật sửa đổi, bổ sung Điều 66 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo  hướng: 

- Đối với vụ việc vi phạm hành chính thông thường thì thời hạn ra quyết  định xử phạt là 07 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính;  vụ việc thuộc trường hợp phải chuyển hồ sơ đến người có thẩm quyền xử phạt  thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 10 ngày làm việc, kể từ ngày lập biên bản vi  phạm hành chính. 

- Riêng đối với vụ việc mà cá nhân, tổ chức có yêu cầu giải trình hoặc phải  xác minh các tình tiết có liên quan quy định tại Điều 59 của Luật Xử lý vi phạm  hành chính thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 01 tháng, kể từ ngày lập biên  bản vi phạm hành chính. Đối với vụ việc thuộc trường hợp cá nhân, tổ chức có  yêu cầu giải trình hoặc phải xác minh các tình tiết có liên quan mà đặc biệt  nghiêm trọng, có nhiều tình tiết phức tạp, cần có thêm thời gian để xác minh, thu  thập chứng cứ thì thời hạn ra quyết định xử phạt là 02 tháng, kể từ ngày lập biên  bản vi phạm hành chính. 

Việc bỏ quy định về thủ tục gia hạn thời hạn ra quyết định xử phạt góp  phần giảm thiểu thủ tục hành chính, bảo đảm việc xử phạt vi phạm hành chính  được nhanh chóng, thuận lợi, kịp thời hơn, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả của công  tác xử phạt vi phạm hành chính nói riêng và quản lý nhà nước nói chung. 

2.5. Về thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính 

So với Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành, Luật sửa đổi, bổ sung  một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính đã sửa đổi, bổ sung quy định về hoãn, miễn, giảm tiền phạt tại Điều 76 và Điều 77 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng bổ sung quy định tổ chức cũng được hoãn, giảm, miễn tiền  phạt để kịp thời tháo gỡ khó khăn cho tổ chức/doanh nghiệp khi gặp khó  khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch  bệnh…, cụ thể như sau: 

a) Việc hoãn thi hành quyết định phạt tiền được áp dụng khi có đủ các điều  kiện sau đây: 

- Cá nhân bị phạt tiền từ 2.000.000 đồng trở lên, tổ chức bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng trở lên. 

- Cá nhân đang gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn,  dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn; tổ chức đang gặp khó khăn đặc biệt  hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh. Tùy từng  trường hợp cụ thể, cá nhân, tổ chức phải có xác nhận của các cơ quan, tổ chức  sau: Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi  người đó học tập, làm việc; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tuyến huyện trở lên;  Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công  nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực  tiếp. 

b) Việc giảm một phần tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt đối với cá  nhân, tổ chức đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền được áp dụng khi: 

- Cá nhân tiếp tục gặp khó khăn về kinh tế do thiên tai, thảm họa, hỏa hoạn,  dịch bệnh, mắc bệnh hiểm nghèo, tai nạn và có xác nhận của Ủy ban nhân dân  cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó học tập, làm việc. 

- Tổ chức tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên  tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã,  Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ  quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp. 

c) Bổ sung quy định tổ chức cũng được miễn phần tiền phạt còn lại và miễn  toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt bên cạnh quy định miễn tiền phạt  cho cá nhân như Luật Xử lý vi phạm hành chính hiện hành. Tuy nhiên, để được  miễn phần tiền phạt còn lại ghi trong quyết định xử phạt, tổ chức phải đáp ứng  đủ các điều kiện, bao gồm: 

- Đã được giảm một phần tiền phạt theo quy định tại khoản 1 Điều này  hoặc đã nộp tiền phạt lần thứ nhất hoặc lần thứ hai trong trường hợp được nộp  tiền phạt nhiều lần theo quy định tại Điều 79 của Luật Xử lý vi phạm hành  chính. 

- Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt. 

- Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm  họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp. 

Tổ chức được miễn toàn bộ tiền phạt ghi trong quyết định xử phạt khi đáp  ứng đủ các điều kiện: 

- Đã được hoãn thi hành quyết định phạt tiền theo quy định tại Điều 76 của  Luật. 

- Đã thi hành xong hình thức xử phạt bổ sung, biện pháp khắc phục hậu quả được ghi trong quyết định xử phạt. 

- Tiếp tục gặp khó khăn đặc biệt hoặc đột xuất về kinh tế do thiên tai, thảm  họa, hỏa hoạn, dịch bệnh và có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã, Ban quản  lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế, cơ quan Thuế quản lý trực tiếp hoặc cơ quan cấp trên trực tiếp. 

2.6. Về đối tượng, điều kiện, thủ tục áp dụng các biện pháp xử lý hành  chính 

a) Sửa đổi, bổ sung quy định về đối tượng và điều kiện áp dụng các biện  pháp xử lý hành chính 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính năm  2020 đã sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đối tượng và điều kiện áp  dụng các biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã, phường, thị trấn, đưa vào  trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện 

bắt buộc để bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ với bộ luật hình sự; quy định về độ tuổi, số lần vi phạm bị xử phạt vi phạm hành chính… bảo đảm phù hợp với thực  tiễn, bảo đảm tính khả thi, cụ thể: 

- Quy định cụ thể các hành vi vi phạm là điều kiện để áp dụng biện pháp  giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 

- Làm rõ hơn quy định “02 lần trở lên trong 06 tháng”, thống nhất trong  cách áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; 

- Bỏ quy định về việc đối tượng phải vi phạm “02 lần trong 06 tháng” là  điều kiện áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục  bắt buộc để bảo đảm tính khả thi; 

- Bổ sung quy định về việc áp dụng các biện pháp giáo dục tại xã, phường,  thị trấn đối với người sử dụng trái phép chất ma túy (người từ đủ 14 tuổi trở lên  đã hai lần bị xử phạt vi phạm hành chính và bị lập biên bản vi phạm hành chính  tại lần vi phạm thứ ba trong thời hạn 06 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất  ma túy); 

- Bỏ quy định áp dụng biện pháp “tiền đề” giáo dục tại xã, phường, thị trấn  đối với người nghiện ma túy từ đủ 18 tuổi trở lên có nơi cư trú ổn định; đồng  thời, sửa đổi quy định về đối tượng áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo hướng viện dẫn đến quy định của Luật Phòng,  chống ma túy nhằm tránh phát sinh xung đột giữa hai Luật. 

b) Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng các biện  pháp xử lý hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn tối đa các mốc thời  gian thực hiện các công việc. Trong đó, đáng chú ý nhất là việc sửa đổi các quy  định tại khoản 1 Điều 98, khoản 3 Điều 99, khoản 3 Điều 101 và khoản 3 Điều  103 Luật Xử lý vi phạm hành chính liên quan đến thủ tục kiểm tra tính pháp lý  của hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính theo hướng: 

- Không quy định việc kiểm tra tính pháp lý thành một thủ tục riêng biệt,  độc lập; 

- Không quy định thẩm quyền kiểm tra tính pháp lý của công chức tư pháp  - hộ tịch cấp xã đối với hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo  dục tại xã, phường, thị trấn; Trưởng phòng Tư pháp cấp huyện đối với hồ sơ đề nghị áp dụng các biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc. Thay vào đó, Luật sửa đổi, bổ sung  một số điều của Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định rõ, cơ quan nào lập hồ sơ đề nghị thì phải chịu trách nhiệm về tính pháp lý của hồ sơ. 

c) Sửa đổi, bổ sung quy định về quản lý người bị đề nghị áp dụng biện  pháp xử lý hành chính trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp xử lý hành  chính tại Điều 131 Luật Xử lý vi phạm hành chính theo hướng: 

- Đối với người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường giáo dưỡng,  đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc có nơi cư trú  ổn định, cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định giao cho gia đình  quản lý đối tượng trong thời gian làm thủ tục xem xét, quyết định áp dụng biện  pháp xử lý hành chính. 

- Đối với người không có nơi cư trú ổn định hoặc có nơi cư trú ổn định  nhưng gia đình không đồng ý quản lý thì cơ quan, người có thẩm quyền lập hồ sơ quyết định: Giao cho trung tâm, cơ sở tiếp nhận đối tượng xã hội hoặc cơ sở cai nghiện bắt buộc của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương quản lý đối với  người bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc; giao cho  Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người vi phạm cư trú hoặc có hành vi vi phạm tổ chức quản lý trong trường hợp bị đề nghị áp dụng biện pháp đưa vào trường  giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc. 

2.7. Bổ sung Điều 140a- Giáo dục dựa vào cộng đồng vào sau Điều 140  trong Chương II Phần thứ năm như sau: 

1. Giáo dục dựa vào cộng đồng là biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành  chính áp dụng đối với người từ đủ 12 tuổi đến dưới 14 tuổi thuộc đối tượng quy  định tại khoản 1 Điều 92 của Luật này có nơi cư trú ổn định, đang theo học tại  cơ sở giáo dục và cha mẹ, người giám hộ cam kết bằng văn bản về việc quản lý,  giáo dục.

2. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án nhân dân quyết định áp  dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng. 

3. Thời hạn áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng từ 06 tháng đến  24 tháng. 

4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày quyết định áp dụng biện  pháp giáo dục dựa vào cộng đồng có hiệu lực, Tòa án nhân dân nơi đã ra quyết  định phải gửi quyết định cho cha mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành  niên và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú hoặc cơ sở trợ giúp trẻ em,  cơ sở bảo trợ xã hội để phối hợp, giám sát thực hiện. 

Người chưa thành niên bị áp dụng biện pháp giáo dục dựa vào cộng đồng  được đi học hoặc tham gia các chương trình học tập hoặc dạy nghề khác; tham  gia các chương trình tham vấn, phát triển kỹ năng sống tại cộng đồng. 

Bên cạnh đó, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Xử lý vi phạm  hành chính năm 2020 cũng sửa đổi, bổ sung quy định về các biện pháp ngăn  chặn và bảo đảm xử lý vi phạm hành chính như: Bổ sung trường hợp áp dụng  biện pháp tạm giữ người theo thủ tục hành chính tại Điều 122 Luật Xử lý vi  phạm hành chính; sửa đổi, bổ sung quy định về thẩm quyền tạm giữ người theo  thủ tục hành chính tại Điều 123 Luật Xử lý vi phạm hành chính; sửa đổi quy  định về biện pháp tạm giữ tang vật, phương tiện, giấy phép, chứng chỉ hành  nghề tại Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính; sửa đổi, bổ sung quy định về xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tạm giữ, tịch thu tại Điều 126  Luật Xử lý vi phạm hành chính; bãi bỏ quy định về việc báo cáo công tác thi  hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính định kỳ 06 tháng tại Điều 17 Luật  Xử lý vi phạm hành chính nhằm giảm bớt thủ tục và yêu cầu các bộ, ngành, địa  phương và các cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện việc thống kê, tổng hợp báo  cáo; bổ sung biện pháp thay thế xử lý vi phạm hành chính giáo dục dựa vào  cộng đồng (Điều 140a) áp dụng đối với người chưa thành niên vi phạm hành  chính…

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT PHÒNG,  CHỐNG NHIỄM VI RÚT GÂY RA HỘI CHỨNG SUY GIẢM  MIỄN DỊCH MẮC PHẢI Ở NGƯỜI (HIV/AIDS)

I. SỰ CẦN THIẾT PHẢI BAN HÀNH LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG  MỘT SỐ ĐIỀU CỦA LUẬT PHÒNG, CHỐNG HIV/AIDS 

1. Một số kết quả đạt được trong 13 năm thực hiện Luật Phòng, chống  HIV/AIDS 

Sau khi Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 (sau đây viết tắt là Luật  HIV 2006) được ban hành, công tác tuyên truyền, phổ biến và tổ chức triển khai  Luật đã được thực hiện nghiêm túc, đầy đủ, đồng bộ với sự tham gia tích cực  của các cơ quan, ban ngành, đoàn thể và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Hệ  thống văn bản quy định chi tiết thi hành Luật, văn bản hướng dẫn chuyên môn  đã được xây dựng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, với tổng số 03 Nghị định của Chính  phủ; 08 Quyết định, 02 Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ; gần 200 Thông tư,  Thông tư liên tịch và Quyết định của Bộ Y tế. Nhờ đó, công tác phòng, chống  HIV/AIDS đã đạt được những kết quả tích cực: 

- Tình hình nhiễm HIV tại Việt Nam đã giảm. Số ca nhiễm HIV phát hiện  mới và tử vong giảm liên tục từ năm 2008 đến nay. Kể từ ca nhiễm HIV đầu tiên  được phát hiện từ năm 1990 tại TP. Hồ Chí Minh, cho đến nay, hiện trên toàn  quốc đang báo cáo 212.000 người đang nhiễm HIV và 103.000 người nhiễm  HIV đã tử vong. 

- Hệ thống tổ chức, mạng lưới người làm công tác phòng, chống HIV/AIDS  từ trung ương đến xã, phường đã được thiết lập và kiện toàn. Các hoạt động  phòng, chống HIV/AIDS được triển khai đồng bộ, đa dạng, phù hợp với tình  hình thực tế của từng địa phương. Hằng năm, các cơ sở phòng, chống  HIV/AIDS đã tạo điều kiện tiếp cận, cung cấp dịch vụ can thiệp giảm hại, xét  nghiệm HIV cho gần 700.000 người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV, điều trị  cho gần 53.000 người nghiện ma túy, điều trị cho 144.600 người nhiễm HIV và  dự phòng cho gần 2.000 phụ nữ mang thai nhiễm HIV. Trong hơn 10 năm qua,  Việt Nam liên tục đạt ba giảm: giảm số người mới nhiễm HIV, giảm số chuyển  sang AIDS và giảm tử vong; kiểm soát tỷ lệ nhiễm HIV trong cộng đồng dưới  0,3%. Theo kết quả đánh giá của UNAIDS, từ năm 2000 đến nay, Việt Nam đã  dự phòng cho 400.000 người không bị lây nhiễm HIV và 150.000 người không  bị tử vong do AIDS. Việt Nam là một trong 4 quốc gia cùng với Anh, Đức,  Thụy Sĩ có chất lượng điều trị HIV/AIDS tốt nhất thế giới với tỷ lệ người nhiễm HIV được điều trị ARV có tải lượng virus dưới ngưỡng ức chế đạt 96%, góp  phần giảm lây nhiễm HIV trong cộng đồng. 

- Nhận thức của người dân về HIV/AIDS và các biện pháp phòng, chống  HIV/AIDS đã được nâng cao, giảm sự kỳ thị, phân biệt đối xử với người nhiễm  HIV và gia đình họ. Người nhiễm HIV đã được tạo điều kiện, hỗ trợ về hòa nhập cộng đồng, an sinh xã hội, học tập, làm việc và tích cực tham gia công tác  phòng, chống HIV/AIDS. 

Những kết quả đạt được nêu trên đã được quốc tế đánh giá cao, là thành  công trong thực hiện Luật. Tuy nhiên, các kết quả này cần được nâng cao và  phát huy hơn nữa trong thời gian tới thì mới đạt được mục tiêu chấm dứt dịch  bệnh AIDS vào năm 2030. 

2. Một số tồn tại, bất cập trong các quy định của Luật phòng, chống  HIV/AIDS cần phải được khắc phục kịp thời 

Thứ nhất, quy định liên quan đến đối tượng được thông báo kết quả xét  nghiệm HIV, đối tượng được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV còn thiếu và  bất cập gây ảnh hưởng đến quá trình thực hiện. Theo Luật HIV 2006, chỉ những  người trực tiếp chăm sóc điều trị cho người nhiễm HIV được thông báo kết quả  xét nghiệm HIV và chưa có quy định cụ thể ai được quyền tiếp cận thông tin  người nhiễm HIV. Điều này làm phát sinh một số khó khăn, bất cập như: nhiều  người nhiễm HIV đã biết tình trạng HIV nhưng vẫn làm lây nhiễm HIV cho  người khác; do không tiếp cận được thông tin người nhiễm nên không thể xác  định được đối tượng, khu vực lây nhiễm HIV cao để có biện pháp chống  HIV/AIDS phù hợp; gây khó khăn trong thực hiện các quy định, chính sách bảo  hiểm y tế, khám bệnh, chữa bệnh trong quá trình chăm sóc và điều trị người  nhiễm HIV, chưa bảo đảm đồng bộ với Luật khám bệnh, chữa bệnh, Luật bảo  hiểm y tế, Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm,... 

Thứ hai, một số quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS không  còn phù hợp với điều kiện thực tiễn: 

- Quy định người dưới 16 tuổi khi thực hiện xét nghiệm phải có sự đồng ý  bằng văn bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ không phù hợp với thực tiễn và  hạn chế quyền tiếp cận dịch vụ xét nghiệm HIV, quyền được chăm sóc sức khỏe  của trẻ em. Thực tế hiện nay, trẻ từ 15 tuổi nhiễm HIV có quan hệ tình dục rất lo  ngại, không dám tiết lộ nguy cơ lây nhiễm HIV cho cha mẹ để cha mẹ đồng ý  cho nhân viên y tế thực hiện xét nghiệm HIV. Các cơ sở, nhân viên y tế không  xét nghiệm cho trẻ dưới 16 tuổi nếu không có cha mẹ hoặc người giám hộ đi  cùng. Từ đó, trẻ sẽ mất đi cơ hội được xét nghiệm phát hiện và điều trị sớm  HIV. Việc giới hạn độ tuổi 16 cũng không còn phù hợp với sự phát triển thể  chất, tâm sinh lý và nhận thức của trẻ em Việt Nam hiện nay do trẻ đã phát triển  và trưởng thành hơn so với giai đoạn trước, bối cảnh xã hội cũng có thay đổi  hơn. Bên cạnh đó, quy định này cũng chưa phù hợp với khuyến cáo của Tổ chức  y tế thế giới, các tổ chức quốc tế và pháp luật của một số nước (nhiều nước chỉ  giới hạn từ dưới 14 hoặc dưới 15 tuổi). 

- Quy định chỉ cơ sở xét nghiệm HIV được Bộ trưởng Bộ Y tế công nhận  mới được phép khẳng định các trường hợp HIV dương tính không phù hợp với  yêu cầu cải cách hành chính, phân cấp và gây tốn kém kinh phí cho cơ sở y tế  địa phương khi phải thực hiện thủ tục hành chính tại cơ quan trung ương.

- Quy định phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí  nhưng Nhà nước lại không bảo đảm đủ nguồn lực. Quy định này cũng chưa rõ  ràng, chưa đồng bộ với Luật Bảo hiểm y tế nên gây khó khăn cho việc thanh  toán bảo hiểm y tế của người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế do bảo hiểm y tế  sẽ không chi trả do quy định được nhà nước chi trả. 

- Quy định các thông điệp truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS được  thực hiện miễn phí trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên, hiện  nay hầu hết các cơ quan truyền thông đều hoạt động theo cơ chế tự chủ, nên quy  định này không khả thi và thực tế đa số vẫn phải chi trả kinh phí truyền thông. 

- Quy định tại Điều 42 về áp dụng pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, xử lý  vi phạm hành chính đối với người bị xử lý hình sự, hành chính mà bị bệnh AIDS  giai đoạn cuối không còn phù hợp với thực tế diễn biến bệnh trong điều trị và  tiến bộ của kỹ thuật y tế hiện nay. Mặc dù nhiễm HIV được chia làm 4 giai  đoạn, trong đó giai đoạn 4 là giai đoạn chuyển sang bệnh AIDS nhưng hiện nay  một người nhiễm HIV có thể chuyển từ giai đoạn 4 về giai đoạn 1, 2, 3 tùy thuộc  vào việc điều trị ARV nên sẽ có trường hợp giai đoạn 4 nhưng vẫn có thể cải  thiện được. Điều này dẫn đến khó xác định được thời điểm tạm đình chỉ điều tra,  miễn chấp hành hình phạt hoặc khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định rồi thì  đối tượng lại có tiến triển tốt về sức khỏe. Mặt khác, các quy định này đều dẫn  chiếu thực hiện theo pháp luật về hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi phạm hành  chính nên không cần thiết quy định tại Luật này mà thực hiện theo các Luật có  liên quan. 

Thứ ba, giữa Luật Xử lý vi phạm hành chính, Luật sửa đổi, bổ sung một số  điều của Luật Phòng, chống ma túy và Luật Phòng, chống HIV/AIDS đang có  sự mâu thuẫn về quy định người nghiện ma túy tham gia điều trị nghiện bằng  thuốc thay thế theo quy định của pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS vẫn có  thể bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu  quả điều trị cho người nghiện ma túy. 

Các bất cập tồn tại này cần sớm được sửa đổi, bổ sung để bảo đảm tính  đồng bộ cũng như nâng cao hiệu quả thực hiện Luật. 

3. Việc sửa đổi, bổ sung Luật là yêu cầu cần thiết để bảo đảm thể chế  hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng,  chống HIV/AIDS 

Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung  ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân  đã đặt ra mục tiêu vào năm 2030 Việt Nam về cơ bản chấm dứt dịch bệnh AIDS.  Do đó, để đạt được mục tiêu này thông qua việc đưa tỷ lệ người nhiễm HIV  xuống dưới 1.000 ca mỗi năm thì cần phải điều chỉnh, tăng cường một số chính  sách cần thiết và tăng hiệu lực, tính khả thi của các quy định trong Luật.

4. Việc sửa đổi, bổ sung Luật cần được thực hiện để đáp ứng với sự  tiến bộ của khoa học kỹ thuật mới và tình hình dịch tễ HIV/AIDS trong  thời gian tới 

- Các kết quả điều trị cho thấy việc sử dụng thuốc kháng vi rút HIV để điều  trị dự phòng trước khi nhiễm HIV cho các nhóm nguy cơ lây nhiễm HIV cao rất  có hiệu quả trong phòng ngừa và giảm tỷ lệ nhiễm HIV. Do đó, cần bổ sung biện  pháp này trong Luật để bảo đảm tính dự phòng. 

- Các kỹ thuật xét nghiệm HIV hiện nay ngày càng được cải tiến và phát  triển, nhiều kỹ thuật thực hiện đơn giản hơn so với trước đây như sinh phẩm xét  nghiệm nhanh bằng giọt máu đầu ngón tay, tự xét nghiệm bằng dịch miệng.  Việc xét nghiệm khẳng định một trường hợp HIV dương tính cũng đơn giản  hơn, xét nghiệm sàng lọc HIV có thể thực hiện ngoài cơ sở y tế, thực hiện tại  cộng đồng mà không cần nhân viên y tế thực hiện. Do vậy, cần điều chỉnh quy  định của Luật để triển khai kỹ thuật xét nghiệm thuận lợi hơn. 

- Thực tiễn điều trị ARV ngay cho người nhiễm HIV nhằm làm giảm lượng  vi rút trong máu đến ngưỡng không lây truyền HIV cho người khác khi quan hệ  tình dục cho thấy hiệu quả phòng ngừa cao. Do đó, cần có cơ sở pháp lý để  người nhiễm HIV được tiếp cận ngay và có điều kiện tư vấn, thuyết phục họ  điều trị sớm ARV. 

- Tình hình lây nhiễm HIV trong nhóm quan hệ tình dục đồng giới nam,  nhóm vợ, bạn tình của người nhiễm HIV tăng nhanh, trong khi nhóm này khó  nhận dạng, khó tiếp cận do kỳ thị. Do đó, cần thay đổi phương pháp tiếp cận  bằng cách tìm theo dấu vết, mạng lưới của người nhiễm để tìm kiếm những  người có nguy cơ cao nhất lây nhiễm HIV. Điều này chỉ hiệu quả khi biết thông  tin của người nhiễm HIV và được quyền tiếp cận họ sớm. Để thực hiện được thì  cần bổ sung đối tượng cần thiết được tiếp cận thông tin người nhiễm để phục vụ  và bảo vệ quyền lợi cho chính người nhiễm HIV. 

- Việc điều trị dự phòng lây nhiễm từ mẹ sang con của những cặp vợ chồng  nhiễm HIV đạt tỷ lệ thành công trong nhóm người được điều trị dự phòng lây  nhiễm HIV từ mẹ sang con với 98% mang lại hiệu quả và niềm hạnh phúc cho  nhiều gia đình. Vì vậy, cần phải có chính sách phù hợp hơn để các đối tượng này  tiếp cận các dịch vụ điều trị lây truyền HIV từ mẹ sang con. 

5. Nguồn kinh phí hiện nay không bảo đảm đủ điều kiện thực hiện các  biện pháp phòng, chống HIV/AIDS nên cần được điều chỉnh phù hợp 

Hiện nay, nguồn viện trợ quốc tế đang cắt giảm nhanh, nguồn lực trong  nước hạn chế nên không bảo đảm bao phủ được các hoạt động phòng, chống  HIV/AIDS, đặc biệt các hoạt động truyền thông, can thiệp giảm tác hại và dự  phòng lây nhiễm HIV. Hiện nay người nhiễm HIV trong các trại giam không có  thuốc điều trị ARV nếu nhà nước không hỗ trợ. Do đó, cần bổ sung các giải  pháp tăng cường nguồn lực trong nước, nguồn lực từ bảo hiểm y tế, xã hội hóa 

để bảo đảm không ai bị để lại phía sau như đã cam kết với cộng đồng quốc tế  cũng như thực hiện được mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. 

6. Các kinh nghiệm quốc tế và khuyến nghị của các tổ chức y tế,  phòng, chống HIV/AIDS hàng đầu thế giới cho thấy yêu cầu cần có các biện  pháp hiệu quả hơn trong thời gian tới 

Xu thế quốc tế hiện nay tập trung dự phòng đặc hiệu, gồm xét nghiệm sớm  và điều trị ngay, dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc cho những người  nguy cơ cao như nhóm người quan hệ tình dục đồng giới nam, người có vợ,  chồng bị nhiễm HIV nhưng chưa bị nhiễm HIV… Các quốc gia phát triển và các  tổ chức quốc tế đang giảm dần kinh phí cho hoạt động phòng, chống HIV/AIDS  trên toàn cầu, các ưu tiên của họ tập trung cho các nước có dịch HIV/AIDS cao.  Còn các quốc gia thuộc nhóm thu nhập trung bình, chỉ tập trung hỗ trợ kỹ thuật.  Các tổ chức quốc tế chuyên về phòng, chống HIV/AIDS như UNAIDS khuyến  cáo các nước cũng như Việt Nam cần tập trung nguồn lực, cải cách thể chế  mạnh hơn nữa để tiếp tục duy trì cam kết đáp ứng các Mục tiêu 90-90-90 vào  năm 2020 và tiến tới chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030 để HIV không  còn là mối đe dọa tới sức khỏe cộng đồng và là một trong các mục tiêu phát triển  bền vững. 

Như vậy, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống  HIV/AIDS là hết sức cần thiết, góp phần tạo cơ sở pháp lý mạnh mẽ và toàn  diện để nâng cao hiệu quả của công tác phòng, chống HIV/AIDS, thúc đẩy hoàn  thành mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. 

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO XÂY DỰNG LUẬT 1. Mục đích 

Tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các hoạt động phòng chống HIV/AIDS  góp phần giảm số người nhiễm mới HIV xuống dưới 1.000 trường hợp, giảm số  tử vong do AIDS đạt mức dưới 1 trường hợp /100.000 dân, nâng cao hiệu lực,  hiệu quả phòng, chống HIV/AIDS nhằm chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm  2030 theo Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban chấp hành Trung  ương Đảng khóa XIII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức  khỏe nhân dân trong tình hình mới. 

2. Quan điểm chỉ đạo 

a) Thể chế hóa kịp thời, đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng về phòng,  chống HIV/AIDS đã được định hướng tại Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban  chấp hành Trung ương khóa XIII về bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe  nhân dân trong tình hình mới. 

b) Khắc phục được các tồn tại, bất hợp lý sau 13 năm thực hiện Luật, đồng  thời cụ thể hóa một số chính sách phòng, chống HIV/AIDS trên cơ sở có kế thừa  chọn lọc những quy định hiện hành đang phát huy hiệu quả trong thực tiễn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta để tạo hành lang pháp lý thuận lợi  cho các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. 

c) Bảo đảm quyền của người nhiễm HIV. 

d) Khuyến khích, huy động sự tham gia tích cực của cả hệ thống chính trị,  mọi người dân, các tổ chức xã hội dân sự và người nhiễm HIV vào công tác  phòng, chống HIV/AIDS. 

đ) Thực hiện các cam kết với cộng đồng quốc tế về thực hiện mục tiêu 90- 90-90 vào năm 2020, hướng đến cơ bản chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm  2030. 

e) Bảo đảm tính dự báo trong tương lai, thích ứng với các quan hệ xã hội  phát sinh liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS, phù hợp với kinh nghiệm và  thông lệ quốc tế. 

III. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG LUẬT 

1. Năm 2017, Bộ Y tế đã tổ chức đánh giá 10 năm thực hiện Luật phòng,  chống HIV/AIDS và tiến hành các thủ tục trình Chính phủ, Quốc hội đề xuất  xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phòng, chống  HIV/AIDS. 

2. Ngày 11/6/2019, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 78/2019/QH14  ban hành Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2020, điều chỉnh chương  trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2019. Thực hiện phân công của Thủ tướng  Chính phủ, từ tháng 5/2019 đến nay, Bộ Y tế đã tiến hành các bước xây dựng  Hồ sơ dự án Luật theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp  luật, cụ thể như sau: 

- Ban hành kế hoạch xây dựng dự án Luật. Thành lập Ban soạn thảo, Tổ  biên tập. 

- Xây dựng hồ sơ dự án Luật: Tiếp tục cập nhật và xây dựng Báo cáo tổng  kết 13 năm thi hành Luật phòng, chống HIV/AIDS; Tổ chức đánh giá và xây  dựng Báo cáo đánh giá tác động chính sách; đánh giá tác động thủ tục hành  chính, lồng ghép giới; Tổ chức xây dựng Dự thảo Luật. 

- Tổ chức lấy ý kiến đối với hồ sơ dự án Luật: Tổ chức họp, lấy ý kiến Ban  soạn thảo, Tổ biên tập; tổ chức họp và gửi công văn lấy ý kiến các bộ, ngành, tổ  chức có liên quan, các đối tượng chịu sự tác động và đăng tải trên cổng thông tin  điện tử của Chính phủ và Bộ Y tế theo quy định. 

- Bộ Tư pháp đã tổ chức thẩm định và đồng ý dự án Luật đủ điều kiện trình  trên cơ sở tiếp thu ý kiến thẩm định. 

- Chính phủ họp phiên họp thường kỳ Chính phủ tháng 5 lấy ý kiến thành  viên Chính phủ về Dự án Luật, nội dung còn có ý kiến khác nhau và đã thông  qua Hồ sơ Dự án Luật. 

IV. BỐ CỤC VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA LUẬT

Ngày 16/11/2020, với 91,29% tổng số đại biểu Quốc hội tham gia biểu  quyết tán thành (tức 100% đại biểu có mặt bỏ phiếu), Quốc hội chính thức thông  qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm virus gây  ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS). 

1. Bố cục của Luật 

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây  ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người sửa đổi 15 điều và bãi bỏ 10  điều của Luật hiện hành. Luật có bố cục gồm 2 Điều. Điều 1 là sửa đổi, bổ sung  một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn  dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS); Điều 2 là điều khoản thi hành.  

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây  ra hội chứng suy giảm miện dịch mắc phải ở người có hiệu lực thi hành từ ngày  01/7/2021. 

2. Nội dung cơ bản của Luật 

2.1. Sửa đổi, bổ sung các thuật ngữ: “Xét nghiệm HIV”, “Các biện pháp  can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV”, “Dự phòng trước phơi  nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV” và “Người di biến động” tại Điều 2 về giải thích từ ngữ để bảo đảm cách hiểu thống nhất, chính xác phù hợp với nội  dung sửa đổi, bổ sung trong dự thảo Luật, cụ thể: 

- Xét nghiệm HIV là việc thực hiện các kỹ thuật chuyên môn nhằm xác định  tình trạng nhiễm HIV trong mẫu máu, mẫu dịch sinh học của cơ thể người, bao  gồm xét nghiệm sàng lọc HIV và xét nghiệm khẳng định HIV dương tính. 

- Người di biến động là người thường xuyên sống xa gia đình, thay đổi chỗ ở và nơi làm việc. 

- Biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV là giải  pháp nhằm giảm tác động có hại của hành vi nguy cơ cao lây nhiễm HIV đối với  cá nhân và cộng đồng. 

- Dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV là việc sử dụng thuốc kháng HIV để phòng ngừa, giảm nguy cơ nhiễm HIV. 

2.2. Bổ sung nghĩa vụ của người nhiễm HIV vào điểm b và điểm c khoản 2  Điều 4 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch  mắc phải ở người năm 2006, cụ thể: 

- Thông báo kịp thời kết quả xét nghiệm HIV dương tính của mình cho vợ,  chồng, người dự định kết hôn, người chung sống như vợ chồng với mình; 

- Thực hiện các quy định về điều trị khi tham gia điều trị bằng thuốc kháng  HIV. 

Đây là nội dung cần thiết để góp phần bảo vệ quyền được an toàn của mỗi  cá nhân và giảm nguy cơ lây nhiễm HIV từ người nhiễm HIV qua quan hệ tình  dục. Điều chỉnh, bổ sung một số đối tượng nguy cao được ưu tiên các biện pháp  tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS tại khoản  2 Điều 11 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch  mắc phải ở người năm 2006 gồm: 

“Ưu tiên tiếp cận thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống  HIV/AIDS cho các đối tượng sau đây: 

a) Người nhiễm HIV; 

b) Người sử dụng ma túy; 

c) Người bán dâm; 

d) Người có quan hệ tình dục đồng giới; 

đ) Người chuyển đổi giới tính; 

e) Vợ, chồng và thành viên khác của gia đình cùng sống chung với người  nhiễm HIV; vợ, chồng của đối tượng quy định tại các điểm, b, c, d và đ khoản  này; 

g) Người có quan hệ tình dục với người nhiễm HIV; 

h) Người mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục; 

i) Người di biến động; 

k) Phụ nữ mang thai; 

l) Phạm nhân, người bị tạm giam, trại viên cơ sở giáo dục bắt buộc, học  sinh trường giáo dưỡng, học viên cơ sở cai nghiện ma túy; 

m) Người dân tộc thiểu số; người sống ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, hải  đảo, khu vực biên giới, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó thăn; 

n) Người từ đủ 13 tuổi đến dưới 30 tuổi.”. 

2.3. Sửa đổi, bổ sung một số khoản của Điều 12 Luật Phòng, chống nhiễm  vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006 về trách  nhiệm thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS, cụ thể:  

a) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 và bổ sung khoản 3a vào sau khoản 3 như sau: 

“3. Bộ Thông tin và Truyền thông trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của  mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo các cơ quan truyền thông, báo chí thường  xuyên thực hiện hoạt động thông tin, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS,  lồng ghép chương trình phòng, chống HIV/AIDS với chương trình, thông tin,  truyền thông khác. 

3a. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn  của mình có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo đưa thông tin, tuyên truyền về phòng,  chống HIV/AIDS vào các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch và đời sống gia  đình.”;

b) Sửa đổi, bổ sung khoản 5 như sau: 

“5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng  trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm chủ trì, phối hợp  với các bộ, ngành có liên quan chỉ đạo công tác thông tin, giáo dục, truyền thông  về phòng, chống HIV/AIDS tại các cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng,  cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm  giữ, cơ sở giam giữ khác”. 

c) Sửa đổi, bổ sung khoản 7 như sau: 

“7. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm ưu tiên về thời điểm,  thời lượng phát sóng thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống  HIV/AIDS trên đài phát thanh, đài truyền hình; dung lượng và vị trí đăng trên  báo in, báo hình, báo điện tử theo quy định của Bộ Thông tin và Truyền thông.  Việc thực hiện thông tin, giáo dục, truyền thông về phòng, chống HIV/AIDS  không thu phí, trừ trường hợp thực hiện theo đặt hàng, giao nhiệm vụ có bố trí  kinh phí của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, hợp đồng với chương trình, dự án về phòng, chống HIV/AIDS hoặc do tổ chức, cá nhân trong nước, nước ngoài  tài trợ.”. 

2.4. Sửa tên một số cơ quan, tổ chức tại Điều 18 Luật Phòng, chống nhiễm  vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006, cụ thể: 

Sửa đổi, bổ sung Điều 18 như sau: 

“Điều 18. Phòng, chống HIV/AIDS trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường  giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm  giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác 

1. Người đứng đầu cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai  nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác có trách nhiệm tổ chức quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm,  chăm sóc, điều trị cho người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV ở cơ sở do  mình quản lý. 

2. Chính phủ quy định việc quản lý, tuyên truyền, tư vấn, xét nghiệm, chăm  sóc, điều trị cho người nhiễm HIV và dự phòng lây nhiễm HIV quy định tại  khoản 1 Điều này.”. 

2.5. Điều chỉnh, mở rộng sự tham gia của người nhiễm HIV, người có hành  vi nguy cơ cao được tham gia một số biện pháp phòng, chống HIV/AIDS tại  Điều 20 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch  mắc phải ở người năm 2006. 

1. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao có quyền tham gia các  hoạt động phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp luật phù hợp với  khả năng, điều kiện của mình. 

2. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện và hỗ trợ cho người nhiễm HIV,  người có hành vi nguy cơ cao tham gia nhóm giáo dục đồng đẳng và các hình thức tổ chức sinh hoạt khác trong lĩnh vực phòng, chống HIV/AIDS theo quy  định của pháp luật. 

3. Người nhiễm HIV, người có hành vi nguy cơ cao được thực hiện các  hoạt động sau đây: 

a) Tuyên truyền và tham gia thực hiện các biện pháp can thiệp giảm tác hại  trong dự phòng lây nhiễm HIV theo quy định của Chính phủ; 

b) Cung cấp dịch vụ tư vấn, xét nghiệm sàng lọc HIV, sinh phẩm tự xét  nghiệm HIV cho người có hành vi nguy cơ cao khi đáp ứng đủ điều kiện theo  quy định Chính phủ; 

c) Tư vấn và hỗ trợ cho người có hành vi nguy cơ cao tham gia điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV; 

d) Hỗ trợ, chăm sóc người nhiễm HIV; 

đ) Tham gia ý kiến trong quá trình xây dựng chính sách, pháp luật liên  quan đến phòng, chống HIV/AIDS; 

e) Các hoạt động khác về phòng, chống HIV/AIDS theo quy định của pháp  luật”. 

2.6. Bổ sung biện pháp can thiệp mới là “dự phòng trước phơi nhiễm HIV  bằng thuốc kháng vi rút HIV” tại Điều 21 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây  ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006. Đây là biện pháp  kỹ thuật mới rất có hiệu quả trong phòng lây nhiễm HIV  

1. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV bao  gồm: 

a) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng bao cao su; 

b) Cung cấp, hướng dẫn sử dụng bơm kim tiêm sạch; 

c) Dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV; d) Điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế; đ) Các biện pháp can thiệp giảm tác hại phù hợp khác. 

2. Ưu tiên can thiệp giảm tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV cho đối  tượng quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e, g, h, i và l khoản 2 Điều 11 của Luật  này. 

3. Chính phủ quy định việc tổ chức thực hiện các biện pháp can thiệp giảm  tác hại trong dự phòng lây nhiễm HIV. 

2.7. Giảm độ tuổi được quyền tự nguyện đề nghị xét nghiệm HIV của trẻ em  tại khoản 2 và khoản 3 Điều 27 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội  chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006, cụ thể:

- Người từ đủ 15 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự được tự nguyện  yêu cầu xét nghiệm HIV. 

- Việc xét nghiệm HIV đối với người dưới 15 tuổi, người mất năng lực  hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý bằng văn  bản của cha, mẹ hoặc người giám hộ, người đại diện của người đó 

2.8. Đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với điều kiện của cơ sở xét  nghiệm HIV về xét nghiệm sàng lọc HlV, xét nghiệm khẳng định HIV dương  tính. 

1. Xét nghiệm sàng lọc HIV được thực hiện tại cơ sở y tế, tại cộng đồng và  tự xét nghiệm. 

2. Xét nghiệm khẳng định HIV dương tính, chỉ được thực hiện tại cơ sở xét  nghiệm HIV đủ điều kiện khẳng định HIV dương tính. Người được xét nghiệm  muốn nhận kết quả xét nghiệm phải cung cấp địa chỉ nơi cư trú và xuất trình  Giấy chứng minh nhân dân, thẻ Căn cước công dân, Hộ chiếu hoặc giấy tờ khác  có ảnh, thông tin cá nhân do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp còn giá trị sử dụng. 

3. Điều kiện, hồ sơ, thủ tục công nhận cơ sở đủ điều kiện xét nghiệm khẳng  định HIV dương tính theo quy định của Chính phủ. 

2.9. Bổ sung đối tượng được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV tại Điều  30 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc  phải ở người năm 2006 về thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính và tiếp  cận thông tin người nhiễm HlV, cụ thể: 

1. Người đứng đầu cơ sở quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này có  trách nhiệm thực hiện việc thông báo kết quả xét nghiệm HIV dương tính. 

2. Kết quả xét nghiệm HIV dương tính chỉ được thông báo cho những  người sau đây: 

a) Người được xét nghiệm; 

b) Vợ hoặc chồng của người được xét nghiệm; cha, mẹ hoặc người giám  hộ, người đại diện của người được xét nghiệm là người dưới 18 tuổi, người mất  năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và  người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; 

c) Người được giao nhiệm vụ trực tiếp tư vấn, thông báo kết quả xét  nghiệm HIV dương tính cho người được xét nghiệm; 

d) Người đứng đầu cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học HIV/AIDS; người được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học HIV/AIDS; 

đ) Người đứng đầu, điều dưỡng viên trưởng của khoa, phòng, đơn vị khác  của cơ sở y tế có người nhiễm HIV được điều trị; nhân viên y tế được giao trách  nhiệm trực tiếp điều trị, chăm sóc cho người nhiễm HIV tại cơ sở y tế;

e) Người đứng đầu, người phụ trách y tế, nhân viên y tế được giao nhiệm  vụ trực tiếp chăm sóc sức khỏe cho người nhiễm HIV tại cơ sở giáo dục bắt  buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại  giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác; 

g) Người đứng đầu và cán bộ, công chức được giao trách nhiệm của các cơ  quan quy định tại khoản 1 Điều 28 của Luật này. 

3. Người được tiếp cận thông tin người nhiễm HIV hao gồm: 

a) Người quy định tại điểm d khoản 2 Điều này; 

b) Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ quan bảo hiểm xã  hội trực tiếp thực hiện việc giám định, thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh,  chữa bệnh bảo hiểm y tế cho người nhiễm HIV; 

c) Người đứng đầu, người được giao nhiệm vụ của cơ sở y tế khi trực tiếp  thực hiện việc thanh toán, quản lý thông tin khám bệnh, chữa bệnh cho người  nhiễm HIV; 

d) Người được người nhiễm HIV đồng ý cho phép tiếp cận thông tin của  chính người nhiễm HIV. 

4. Phạm vi tiếp cận thông tin người nhiễm HIV được quy định như sau: 

a) Người quy định tại điểm d khoản 2 Điều này được tiếp cận thông tin  người nhiễm HIV có nơi thường trú, nơi tạm trú hoặc được xét nghiệm HIV trên  địa bàn được giao nhiệm vụ giám sát dịch tễ học HIV/AIDS; 

b) Người quy định tại điểm b và điểm c khoản 3 Điều này được tiếp cận  thông tin người nhiễm HIV đến khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế nơi làm  việc hoặc được phân công giám định bảo hiểm y tế. 

5. Nội dung tiếp cận thông tin người nhiễm HIV bao gồm: 

a) Thông tin cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 29 của Luật này; b) Thông tin dịch tễ học HIV/AIDS; 

c) Tình trạng điều trị HIV/AIDS. 

6. Người quy định tại các điểm b, c, d, đ, e, g khoản 2 và khoản 3 Điều này  có trách nhiệm giữ bí mật thông tin người nhiễm HIV. 

7. Bộ trưởng Bộ Y tế quy định hình thức, quy trình thông báo kết quả xét  nghiệm HIV dương tính và tiếp cận thông tin người nhiễm HIV quy định tại  Điều này. 

2.10. Quy định phụ nữ mang thai tự nguyện xét nghiệm HIV được miễn phí  như quy định hiện hành và có thêm nguồn chi trả từ bảo hiểm y tế đối với người  có thẻ bảo hiểm y tế theo yêu cầu chuyên môn tại một số khoản của Điều 35  Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải  ở người năm 2006 

a) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 như sau: 

“1. Phụ nữ mang thai xét nghiệm HIV theo chỉ định chuyên môn được Quỹ bảo hiểm y tế, ngân sách nhà nước chi trả chi phí xét nghiệm như sau: 

a) Quỹ bảo hiểm y tế chi trả cho người có thẻ bảo hiểm y tế theo mức  hưởng quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế; 

b) Ngân sách nhà nước chi trả phần chi phí Quỹ bảo hiểm y tế không chi trả cho đối tượng quy định tại điểm a khoản này và chi trả cho người không có thẻ bảo hiểm y tế theo mức giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế.”; 

b) Sửa đổi, bổ sung khoản 3 như sau: 

“3. Phụ nữ nhiễm HIV được tư vấn về phòng, chống HIV/AIDS trong thời  kỳ mang thai và cho con bú.”; 

c) Sửa đổi, bổ sung khoản 5 như sau: 

“5. Chính phủ quy định nguồn ngân sách nhà nước và phương thức chi trả trong trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này. 

Bộ trưởng Bộ Y tế quy định cụ thể quy trình, thời điểm, số lần xét nghiệm  HIV cho phụ nữ mang thai quy định tại khoản 1 Điều này; việc chăm sóc, điều  trị đối với phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, khi sinh con, cho con bú  và các biện pháp nhằm giảm lây nhiễm HIV từ mẹ sang con.”. 

2.11. Bổ sung biện pháp điều trị dự phòng trước phơi nhiễm với HIV là  biện pháp chuyên môn kỹ thuật mới, hiệu quả cho người có nguy cơ phơi nhiễm  với HIV, người phơi nhiễm với HIV tại Điều 36 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút  gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006  

“1. Người có nguy cơ phơi nhiễm với HIV, người phơi nhiễm với HIV  được tư vấn, điều trị dự phòng trước và sau phơi nhiễm với HIV. Ưu tiên tiếp  cận tư vấn, điều trị dự phòng trước phơi nhiễm với HIV bằng thuốc kháng HIV  cho đối tượng quy định tại các điểm b, c, d, đ, e và g khoản 2 Điều 11 của Luật  này. 

2. Người bị phơi nhiễm với HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp, rủi ro của kỹ thuật y tế được tư vấn, điều trị dự phòng lây nhiễm HIV và hưởng chế độ theo  quy định của Luật này.”. 

2.12. Bổ sung đối tượng được điều trị miễn phí do không tiếp cận bảo hiểm  y tế của các phạm nhân tại khoản 2 Điều 39 Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây  ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người năm 2006  

“2. Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV cho các đối tượng sau đây: 

a) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp; 

b) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do rủi ro của kỹ thuật y tế;

c) Người bị phơi nhiễm với HIV, bị nhiễm HIV do tham gia cứu nạn; 

d) Phụ nữ và trẻ em có chỉ định điều trị dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con; 

đ) Trẻ em dưới 06 tuổi nhiễm HIV; 

e) Người nhiễm HIV trong cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ  sở cai nghiện ma túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ,  cơ sở giam giữ khác”. 

2.13. Quy định cụ thể hơn về nguồn lực và huy động các nguồn lực khác  nhau cho phòng, chống HIV/AIDS  

Nguồn tài chính cho phòng, chống HIV/AIDS gồm: 

1. Ngân sách nhà nước. 

2. Quỹ bảo hiểm y tế. 

3. Chi trả của người sử dụng dịch vụ dự phòng, điều trị HIV/AIDS. 

4. Nguồn tài trợ, viện trợ, đầu tư, tặng cho của tổ chức, cá nhân trong nước  và nước ngoài. 

5. Các nguồn tài chính hợp pháp khác. 

Quy định này bảo đảm thực hiện các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS  nhằm mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS tại Việt Nam, thể hiện vai trò Nhà  nước trong việc cam kết nguồn lực hỗ trợ các hoạt động phòng, chống  HIV/AIDS đối với cộng đồng quốc tế.  

2.14. Sửa đổi, bổ sung chế độ, chính sách đối với người trực tiếp làm xét  nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người nhiễm HIV 

Người trực tiếp làm xét nghiệm HIV, quản lý, chăm sóc và điều trị người  nhiễm HIV tại cơ sở giáo dục bắt buộc, trường giáo dưỡng, cơ sở cai nghiện ma  túy, cơ sở bảo trợ xã hội, trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ, cơ sở giam giữ khác được ưu tiên trang bị phương tiện, dụng cụ cần thiết để phòng lây nhiễm  HIV, hưởng các chế độ phụ cấp nghề nghiệp và các chế độ ưu đãi khác theo quy  định của Thủ tướng Chính phủ. 

2.15. Bãi bỏ Điều 42 về tạm đình chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt  đối với người bị AIDS giai đoạn cuối, do khi người nhiễm HIV chuyển sang giai  đoạn AIDS, nếu được điều trị ARV sẽ khỏe mạnh bình thường.  

Việc bỏ điều khoản này cũng nhằm đảm bảo quyền được điều trị HIV/AIDS cho những người nhiễm HIV trong cơ sở giam giữ, không để cho họ bị tử vong do AIDS nếu không được điều trị. Mặt khác, hiện nay việc tạm đình  chỉ điều tra, miễn chấp hành hình phạt tù và các biện pháp xử lý vi phạm hành  chính đang được thực hiện theo các luật về hình sự, tố tụng hình sự, xử lý vi  phạm hành chính mới được ban hành.

2.16. Bãi bỏ Điều 44 về Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV 

Việc bãi bỏ Quỹ này phù hợp với chủ trương tại Nghị quyết số 792/2019/NQ-UBTVQH14 ngày 22/10/2019 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội  về các quỹ ngoài ngân sách. Chính phủ sẽ đề xuất ghép nội dung của Quỹ này  trong một Quỹ chung về lĩnh vực y tế khi xây dựng trong Luật Phòng bệnh trình  Quốc hội trong nhiệm kỳ tới. Việc bãi bỏ điều này không làm ảnh hưởng đến  quyền được hỗ trợ, chăm sóc, điều trị HIV/AIDS của người nhiễm HIV do việc  điều trị HIV/AIDS đã được Quỹ bảo hiểm y tế chi trả hoặc ngân sách nhà nước  đảm bảo cho một số đối tượng quy định tại Điều 39 sửa đổi, bổ sung. 

Kể từ ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng, chống  nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người có hiệu lực  thi hành, toàn bộ tài sản, tài chính của Quỹ hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người  nhiễm HIV được sử dụng để hỗ trợ, điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV theo  quyết định của Bộ trưởng Bộ Y tế đối với Quỹ ở trung ương và theo quyết định  của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đối với  Quỹ ở địa phương.

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT NGƯỜI LAO ĐỘNG VIỆT NAM ĐI LÀM VIỆC

Ở NƯỚC NGOÀI THEO HỢP ĐỒNG

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT 

Năm 2006, Quốc hội khóa XI đã ban hành Luật số 72/2006/QH11 về Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (sau đây gọi  là Luật số 72) và có hiệu lực kể từ 01/7/2007. 

Luật số 72 và hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo hành lang  pháp lý đồng bộ để điều chỉnh hoạt động người lao động đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động,  tăng cường công tác quản lý, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và đơn vị sự 

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này và đảm bảo quyền tự do tìm kiếm việc làm  cho người dân. 

Kể từ khi có Luật số 72, số lượng người lao động đi làm việc ở nước ngoài  hàng năm tăng đáng kể, trung bình mỗi năm có hơn 80.000 người đi làm việc ở nước ngoài, đặc biệt trong 5 năm gần đây, mỗi năm có trên 130.000 người, góp  phần đáng kể nâng cao thu nhập, đời sống của người dân, cải thiện chất lượng  nguồn nhân lực thông qua việc tiếp cận với máy móc và công nghệ tiên tiến, cơ  chế quản lý hiện đại, tác phong công nghiệp, nâng cao trình độ kỹ năng nghề cho người lao động. 

Bên cạnh kết quả đạt được, sau hơn 12 năm thi hành, thực tiễn đặt ra các  yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện một số quy định của Luật số 72. Sửa đổi Luật  lần này xuất phát từ các yêu cầu sau đây: 

- Thứ nhất, thực tiễn hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nảy sinh những vấn đề mới mà Luật số 72 chưa quy  định. 

Cùng với quá trình hội nhập quốc tế và việc Việt Nam tham gia các hiệp  định thương mại thế hệ mới, sự hình thành khối cộng đồng kinh tế ASEAN cho  phép tự do di chuyển trong khối ASEAN dẫn đến việc xuất hiện nhiều hình thức  hợp tác, dịch chuyển lao động mới trong thời gian gần đây chưa được quy định  trong Luật số 72 như hình thức công dân xuất cảnh hợp pháp theo các mục đích  không phải lao động, sau đó tìm được việc làm để cư trú và làm việc hợp pháp  theo quy định của nước sở tại (Macao, Úc, Niu di-lân)…; hình thức thỏa thuận  gửi và tiếp nhận lao động giữa các địa phương của Việt Nam với địa phương của  một số quốc gia tiếp nhận lao động (Hàn Quốc, Trung Quốc)…, do vậy đã gặp  một số khó khăn trong việc hướng dẫn thi hành Luật và công tác quản lý Nhà  nước, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài.

- Thứ hai, thực tiễn áp dụng Luật số 72 đã phát sinh một số vướng mắc,  không còn phù hợp với thực tế hiện nay. 

Qua tổng kết thi hành Luật số 72, một số quy định phát sinh các vướng mắc  như điều kiện cấp giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài còn chưa chặt chẽ, chưa phù hợp với hoạt động đưa người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài (quy định điều kiện doanh nghiệp đáp ứng  phương án về cán bộ, cơ sở vật chất khi cấp giấy phép, điều kiện về tài  chính chưa đảm bảo năng lực tài chính của doanh nghiệp trong việc giải quyết  các vụ việc phát sinh, điều kiện về người lãnh đạo điều hành còn mở và không  hoàn toàn phù hợp); quy định về tiền môi giới, tiền dịch vụ, tiền ký quỹ của  người lao động chưa phản ánh đúng bản chất và xu hướng chung của các tiêu  chuẩn lao động quốc tế; Luật số 72 quy định các tổ chức sự nghiệp được đưa  người lao động đi làm việc ở nước ngoài nhưng mới chỉ giới hạn là các tổ chức  sự nghiệp thuộc Bộ, ngành, chưa quy định các tổ chức sự nghiệp thuộc các địa  phương đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài để thực hiện thỏa thuận của địa  phương.

- Thứ ba, một số quy định của Luật số 72 chưa đảm bảo sự đồng bộ với các  Luật mới được Quốc hội ban hành trong thời gian gần đây. 

Do được ban hành từ năm 2006, nên một số nội dung của Luật số 72 chưa  đảm bảo phù hợp với các luật mới ban hành gần đây như: Bộ luật Lao động năm  2012 và đã được sửa đổi, bổ sung năm 2019, Luật Xử lý vi phạm hành chính  năm 2012, Luật Việc làm năm 2013, Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ 

sung năm 2017), Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Doanh nghiệp năm 2014, Luật  Đầu tư năm 2014 ... 

- Thứ tư, một số quy định của Luật số 72 chưa đáp ứng được các yêu cầu  mới về hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng trong bối cảnh kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế mới. 

Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất lượng nguồn lao  động đi làm việc ở nước ngoài chưa cao, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của người sử dụng lao động nước ngoài là do Luật số 72 quy định doanh nghiệp chỉ được  phép tuyển chọn lao động sau khi hợp đồng cung ứng lao động được cơ quan  quản lý nhà nước chấp thuận. Do đó, doanh nghiệp không có nhiều thời gian để tuyển chọn và đào tạo lao động theo yêu cầu về chất lượng và tiến độ của đối  tác. Từ đó dẫn đến tình trạng chất lượng lao động không đảm bảo (nếu đào tạo  không đủ thời gian) hoặc mất cơ hội ký hợp đồng cung ứng lao động, mất đối  tác, giảm tính cạnh tranh với doanh nghiệp cung ứng của các quốc gia khác (nếu  đào tạo đủ thời gian theo yêu cầu quy định của Luật). 

- Thứ năm, Luật số 72 chưa quy định rõ về loại hình đối với Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước, dẫn đến cơ cấu tổ chức, quy chế hoạt động và tổ chức bộ máy của Quỹ chưa được định hình rõ ràng. Bên cạnh đó, những nội dung chi hỗ trợ của Quỹ được quy định trong Luật số 72 mới chỉ mang tính chất giải quyết  rủi ro, chưa hướng tới các hoạt động mang tính hỗ trợ thúc đẩy hoạt động người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, nhiều hoạt động khác cần  được hỗ trợ nhưng lại không có cơ sở để chi từ Quỹ (do chưa được quy định);  các nội dung chi hỗ trợ của Quỹ mới chỉ được quy định rất giới hạn (chỉ chi cho  các hoạt động mở rộng và phát triển thị trường, nâng cao chất lượng nguồn lao  động, hỗ trợ giải quyết rủi ro cho doanh nghiệp và người lao động), trong khi đó  rất nhiều hoạt động khác (như xây dựng đường dây nóng hỗ trợ người lao động,  thiết lập sàn giao dịch việc làm ngoài nước, phổ biến chính sách, pháp luật và  nâng cao nhận thức nhằm phòng ngừa rủi ro cho người lao động khi đi làm việc  ở nước ngoài) cũng cần được chi hỗ trợ, nhưng Luật số 72 chưa quy định, cũng  dẫn đến việc Quỹ hoạt động chưa hiệu quả. 

Thứ sáu, tác động của cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 và vấn đề số hóa đối với lao động di cư đặt ra yêu cầu cấp thiết trong việc đổi mới một cách  căn bản phương thức quản lý hoạt động người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nói riêng và quản lý vấn đề di cư, dịch chuyển lao  động quốc tế vì mục đích việc làm nói chung để phù hợp với những tiến bộ mới  về khoa học công nghệ, phát triển việc làm ngoài nước và bảo hộ quyền làm  việc của công dân. 

II. MỤC ĐÍCH, QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO 

1. Mục đích 

Mục đích sửa đổi Luật là nhằm thể chế hóa các chủ trương, đường lối của  Đảng ta được ban hành trong thời gian gần đây về công tác đưa người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, thể chế hóa Hiến pháp của nước Cộng hòa  xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung năm 2013. 

Theo đó, hoạt động người lao động Việt Nam ra nước ngoài làm việc là  một chủ trương nhất quán và quan trọng, lâu dài, góp phần giải quyết việc làm,  xóa đói giảm nghèo và đào tạo nguồn nhân lực cho công cuộc xây dựng đất  nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cụ thể như sau: 

- Một là, tạo môi trường minh bạch, thông suốt và đồng bộ cho hoạt động  đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; bảo đảm  tương thích giữa pháp luật về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng với pháp luật có liên quan của các quốc gia tiếp nhận lao  động, các công ước quốc tế có liên quan đến lao động di cư. 

- Hai là, tạo điều kiện thuận lợi cho cá nhân người lao động Việt Nam có  nhu cầu đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng nhưng phải kịp thời bảo vệ, hỗ trợ người lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài trong xu thế dịch  chuyển lao động quốc tế, lao động di cư và rủi ro phức tạp khó lường (như:  chiến tranh, suy thoái kinh tế toàn cầu, dịch bệnh Covid-19...). 

- Ba là, tăng cường cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin  mạnh mẽ; minh bạch, loại bỏ và đơn giản thủ tục hành chính. 

2. Quan điểm chỉ đạo

- Một là, đảm bảo thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về vấn đề phát triển việc làm ngoài nước đối với công dân Việt Nam; trong đó, đẩy mạnh  hợp tác đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở các thị trường có thu nhập  cao, làm các công việc và ngành nghề hướng tới mục tiêu nâng cao tay nghề,  trình độ ngoại ngữ,tri thức của người lao động để góp phần xây dựng đất nước. 

- Hai là, cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về các quyền và nghĩa vụ cơ bản  của công dân, bảo đảm sự thống nhất giữa pháp luật về người lao động Việt  Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với các luật chuyên ngành, bảo  đảm tương thích với pháp luật có liên quan của các nước tiếp nhận lao động, các  công ước quốc tế về lao động di cư và khắc phục các hạn chế của luật hiện hành. 

- Ba là, bảo đảm danh dự, nhân phẩm và các quyền tự do cơ bản của người  lao động Việt Nam khi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng góp phần xây dựng  hình ảnh của người lao động nói riêng và Việt Nam nói chung trên trường quốc  tế; cung cấp các biện pháp cần thiết bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp  của người lao động Việt Nam trước khi đi làm việc, khi làm việc ở nước ngoài  và sau khi trở về nước. 

- Bốn là, tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước trong tình hình  mới, phù hợp với nguyên tắc cơ bản của cơ chế thị trường định hướng xã hội  chủ nghĩa; đảm bảo quản lý hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp dịch vụ như là một ngành, nghề kinh doanh có điều kiện đặc thù để bảo vệ người lao  động. 

III. QUÁ TRÌNH SOẠN THẢO 

1. Từ năm 2017, Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội  chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành tiến hành đánh giá tổng kết thi hành Luật  Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, soạn thảo hồ sơ đề nghị xây dựng dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) để trình Quốc hội xem xét đưa vào Chương trình  xây dựng luật, pháp lệnh năm 2019. Sau khi xem xét, Quốc hội quyết định giao  Chính phủ soạn thảo dự án Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng (sửa đổi) để trình Quốc hội khóa XIV cho ý kiến tại kỳ họp  thứ 9 và thông qua tại kỳ họp thứ 10. 

2. Từ tháng 7/2019, Chính phủ đã giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã  hội chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức có liên  quan thực hiện các công việc theo đúng quy định của Luật Ban hành văn bản  quy phạm pháp luật năm 2015, cụ thể như sau: 

- Thành lập Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập và họp để thảo luận, cho ý kiến về các nội dung lớn của dự thảo Luật. 

- Tiến hành nghiên cứu soạn thảo dự thảo, các tài liệu trong hồ sơ và tổ chức lấy ý kiến các Bộ, ngành, địa phương, các chuyên gia ILO, các doanh  nghiệp, các cơ quan, tổ chức, cá nhân. 

- Đăng tải trên trang thông tin điện tử của Chính phủ và trang thông tin điện  tử của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để lấy ý kiến nhân dân từ ngày  03/12/2019. 

Dự thảo Luật đã nhận được khoảng 300 lượt ý kiến góp ý, gồm: 6 Bộ,  ngành, 33 Ủy ban nhân dân và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh,  thành phố, Hiệp hội xuất khẩu lao động, Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, Tổ chức lao động quốc tế (ILO), 203 doanh nghiệp hoạt động dịch vụ đưa người lao  động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, các chuyên gia, ban quản lý lao động  ngoài nước và người lao động. Hiện nay, hồ sơ dự án Luật đang tiếp tục xin ý  kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, người lao động trong quá trình trình Quốc  hội thảo luận và thông qua. 

- Bộ Tư pháp đã tiến hành thẩm định. 

- Chính phủ đã thảo luận và cho ý kiến về nội dung dự án Luật tại phiên  họp thường kỳ Chính phủ tháng 2/2020. 

- Ủy ban về các vấn đề xã hội Quốc hội đã tiến hành thẩm tra. 

- Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến tại Phiên họp thứ 44. 

Đến nay, các tài liệu trong hồ sơ dự án Luật đã được hoàn thiện trên cơ sở nghiêm túc tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính  phủ, các cơ quan của Quốc hội, các thành viên Chính phủ, cơ quan thẩm định và  các cơ quan, tổ chức. 

Các tài liệu trong hồ sơ đảm bảo đầy đủ theo yêu cầu của Luật Ban hành  văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và có bổ sung thêm các tài liệu theo kết  luận của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. 

IV. BỐ CỤC CỦA LUẬT 

Ngày 13/11/2020, với 450/454 Đại biểu tán thành, chiếm 93,36%, Quốc  hội khóa XIV đã chính thức thông qua Luật Người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng 2020. Luật gồm VIII chương, 76 điều quy định  về hoạt động đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;  quyền và nghĩa vụ của người lao động làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;  quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi  làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các tổ chức, cá nhân có liên quan. Luật  này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2022. 

1. Chương I: Những quy định chung gồm 7 điều (từ Điều 1 đến Điều 7)  quy định về phạm vi điều chỉnh; đối tượng áp dụng; giải thích từ ngữ; chính sách của Nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; các hình thức người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng.

2. Chương II: Doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt  Nam đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài gồm 5 mục, 36  điều (từ Điều 8 đến Điều 43) quy định: 

+ Mục 1: Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định về hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; nội dung hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; điều kiện cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hồ sơ, thủ tục và lệ phí cấp Giấy phép; điều chỉnh thông tin Giấy phép; cấp lại Giấy phép; công bố, niêm yết Giấy phép; nộp lại Giấy phép, thu hồi Giấy phép; chi nhánh được giao nhiệm vụ hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; chuẩn bị nguồn lao động; hợp đồng cung ứng lao động; đăng ký hợp đồng cung ứng lao động; hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; hợp đồng môi giới và thù lao theo hợp đồng môi giới; tiền dịch vụ; tiền ký quỹ của doanh nghiệp dịch vụ; tiền ký quỹ của người lao động; quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp dịch vụ; trách nhiệm của doanh nghiệp dịch vụ trong trường hợp nộp lại Giấy phép hoặc bị thu hồi Giấy phép; trách nhiệm của doanh nghiệp dịch vụ trong trường hợp giải thể và trách nhiệm của doanh nghiệp dịch vụ trong trường hợp phá sản. 

+ Mục 2: Doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài quy định về điều kiện của doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; báo cáo đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài của doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài; quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 

+ Mục 3: Tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài quy định về điều kiện của tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; báo cáo đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài của tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài và quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đầu tư ra nước ngoài đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 

+ Mục 4: Doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài quy định về điều kiện của doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài; hợp đồng nhận lao động thực tập; hợp đồng đào tạo nghề ở nước ngoài; đăng ký hợp đồng nhận lao động thực tập; hồ sơ đăng ký hợp đồng nhận lao động thực tập và quyền, nghĩa vụ của doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động Việt Nam đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài. 

+ Mục 5. Đơn vị sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định về điều kiện của đơn vị sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; quyền, nghĩa vụ của đơn vị sự nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

3. Chương III: Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng gồm 4 mục, 18 điều (từ Điều 44 đến Điều 61) quy định: 

+ Mục 1: Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài quy định về điều kiện của người lao động do doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đưa đi làm việc ở nước ngoài; hồ sơ của người lao động đi làm việc ở nước ngoài; quyền, nghĩa vụ của người lao động do doanh nghiệp dịch vụ đưa đi làm việc ở nước ngoài; quyền, nghĩa vụ của người lao động do doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước ngoài hoặc tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài đưa đi làm việc ở nước ngoài; quyền, nghĩa vụ của người lao động đi đào tạo, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề ở nước ngoài và quyền, nghĩa vụ của người lao động do đơn vị sự nghiệp đưa đi làm việc ở nước ngoài. 

+ Mục 2: Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động trực tiếp giao kết quy định về điều kiện của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động trực tiếp giao kết; quyền, nghĩa vụ của người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng lao động trực tiếp giao kết; hợp đồng lao động trực tiếp giao kết; đăng ký hợp đồng lao động và giao kết hợp đồng lao động sau khi xuất cảnh. 

+ Mục 3: Bảo lãnh cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định về điều kiện của bên bảo lãnh; trường hợp, phạm vi bảo lãnh; thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh; hợp đồng bảo lãnh và biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. 

+ Mục 4: Hỗ trợ người lao động sau khi về nước quy định về hỗ trợ tạo việc làm và khởi nghiệp và hỗ trợ hòa nhập xã hội. 

4. Chương IV: Bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ, giáo dục định  hướng cho người lao động gồm 4 điều (từ Điều 62 đến Điều 65) quy định về mục đích bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ, giáo dục định hướng; bồi dưỡng kỹ năng nghề, ngoại ngữ; hỗ trợ đối với cơ sở giáo dục nghề nghiệp và giáo dục định hướng. 

5. Chương V: Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài nước gồm 3 điều (từ Điều 66 đến Điều 68) quy định về quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước; nhiệm vụ của Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước và nguồn hình thành Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước.

6. Chương VI: Quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng gồm 3 điều (từ điều 69 đến Điều 71) quy định về nội dung quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; trách nhiệm quản lý nhà nước về người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng và trách nhiệm của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. 

7. Chương VII: Điều 72 quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp. 

8. Chương VIII: Điều khoản thi hành gồm 2 điều (Điều 73 và Điều 74) quy định về hiệu lực thi hành và quy định chuyển tiếp. 

V. MỘT SỐ ĐIỂM MỚI CƠ BẢN CỦA LUẬT 

Đối tượng áp dụng của Luật Người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng là Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng; Doanh nghiệp đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng; Đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan  thuộc Chính phủ được giao nhiệm vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc  ở nước ngoài theo hợp đồng; Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến lĩnh  vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

1. Bổ sung thêm hình thức người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài 

Điều 5 Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng  năm 2020 đã liệt kê các hình thức người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng như sau: 

1. Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài ký với đơn vị sự  nghiệp để thực hiện điều ước quốc tế, thỏa thuận quốc tế. (quy định mới

2. Hợp đồng hoặc thỏa thuận bằng văn bản ký với doanh nghiệp, tổ chức,  cá nhân, bao gồm: 

a) Doanh nghiệp Việt Nam hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt  Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 

b) Doanh nghiệp Việt Nam trúng thầu, nhận thầu công trình, dự án ở nước  ngoài; 

c) Doanh nghiệp Việt Nam đưa người lao động đi đào tạo, nâng cao trình  độ kỹ năng nghề ở nước ngoài; 

d) Tổ chức, cá nhân Việt Nam đầu tư ra nước ngoài. 

3. Hợp đồng lao động do người lao động trực tiếp giao kết với người sử  dụng lao động ở nước ngoài. 

Theo đó, Luật đã bổ sung thêm hình thức người lao động đi làm việc ở  nước ngoài thông qua đơn vị sự nghiệp để thực hiện điều ước quốc tế, thỏa  thuận quốc tế. Cụ thể, đây là các đơn vị sự nghiệp công lập thuộc Bộ, cơ quan thuộc Chính thủ được giao nhiệm vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở  nước ngoài theo hợp đồng. 

2. Quy định thêm các hành vi bị cấm khi đưa người lao động đi làm  việc ở nước ngoài (Điều 7) gồm: 

1. Lôi kéo, dụ dỗ, hứa hẹn, quảng cáo, cung cấp thông tin gian dối hoặc  dùng thủ đoạn khác để lừa đảo người lao động; lợi dụng hoạt động đưa người  lao động đi làm việc ở nước ngoài để tổ chức xuất cảnh trái phép, mua bán  người, bóc lột, cưỡng bức lao động hoặc thực hiện hành vi trái pháp luật 

2. Hỗ trợ người lao động hoặc trực tiếp làm thủ tục để người lao động đi  làm việc ở nước ngoài khi chưa được sự chấp thuận của cơ quan nhà nước có  thẩm quyền theo quy định của Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng. 

3. Cưỡng ép, lôi kéo, dụ dỗ, lừa gạt người lao động Việt Nam ở lại nước  ngoài. 

4. Phân biệt đối xử; xúc phạm danh dự, nhân phẩm của người lao động;  cưỡng bức lao động trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng. 

5. Hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng mà không có giấy phép; sử dụng giấy phép của doanh  nghiệp khác hoặc cho người khác sử dụng giấy phép của doanh nghiệp để hoạt  động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng. 

6. Giao nhiệm vụ hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho chi nhánh của doanh nghiệp không đúng  quy định của Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng. 

7. Lợi dụng hoạt động chuẩn bị nguồn lao động, tuyển chọn người lao động  đi làm việc ở nước ngoài để thu tiền của người lao động trái pháp luật. 

8. Thu tiền môi giới của người lao động. 

9. Thu tiền dịch vụ của người lao động không đúng quy định của Luật Đưa  người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

10. Áp dụng biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ khác ngoài ký quỹ và  bảo lãnh quy định tại Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo  hợp đồng. 

11. Đi làm việc ở nước ngoài hoặc đưa người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng mà vi phạm đến an ninh quốc gia, trật tự, an  toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của người lao động và cộng đồng hoặc  không được nước tiếp nhận lao động cho phép.

12. Đi làm việc ở nước ngoài hoặc đưa người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài đối với công việc sau đây: 

a) Công việc mát-xa tại nhà hàng, khách sạn hoặc trung tâm giải trí; 

b) Công việc phải tiếp xúc thường xuyên với chất nổ; chất độc hại trong  luyện quặng kim loại màu (đồng, chì, thủy ngân, bạc, kẽm); tiếp xúc thường  xuyên với măng-gan, đi-ô-xít thủy ngân; 

c) Công việc tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở, khai thác quặng phóng xạ  các loại; 

d) Công việc sản xuất, bao gói phải tiếp xúc thường xuyên với hóa chất axít  ni-tơ-ríc, na-tơ-ri xun-phát, đi-xun-phua các-bon hoặc thuốc trừ sâu, thuốc diệt  cỏ, thuốc diệt chuột, thuốc sát trùng, thuốc chống mối mọt có độc tính mạnh; 

đ) Công việc săn bắt thú dữ, cá sấu, cá mập; 

e) Công việc thường xuyên ở nơi thiếu không khí, áp suất lớn (dưới lòng  đất, lòng đại dương); 

g) Công việc liệm, mai táng tử thi, thiêu xác chết, bốc mồ mả. 

13. Đi làm việc ở nước ngoài hoặc đưa người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài ở khu vực sau đây: 

a) Khu vực đang có chiến sự hoặc đang có nguy cơ xảy ra chiến sự; b) Khu vực đang bị nhiễm xạ; 

c) Khu vực bị nhiễm độc; 

d) Khu vực đang có dịch bệnh đặc biệt nguy hiểm. 

14. Tự ý ở lại nước ngoài trái pháp luật sau khi chấm dứt hợp đồng lao  động, hợp đồng đào tạo nghề. 

15. Gây chậm trễ, phiền hà, cản trở, sách nhiễu người lao động hoặc doanh  nghiệp, tổ chức, cá nhân Việt Nam trong lĩnh vực người lao động Việt Nam đi  làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

16. Cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng cho doanh nghiệp không đủ điều kiện theo quy  định của Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. 

17. Sử dụng Quỹ Hỗ trợ việc làm ngoài nước không đúng quy định của  pháp luật. 

3. Điều kiện doanh nghiệp được cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phải có  vốn từ 5 tỷ đồng (Điều 10)

Doanh nghiệp được cấp Giấy phép hoạt động dịch vụ đưa người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng khi có đủ các điều kiện sau  đây: 

a) Có vốn điều lệ từ 05 tỷ đồng trở lên; có chủ sở hữu, tất cả thành viên, cổ  đông là nhà đầu tư trong nước theo quy định của Luật Đầu tư; 

b) Đã ký quỹ theo quy định tại Điều 24 của Luật Đưa người Việt Nam đi  làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 

c) Có người đại diện theo pháp luật là công dân Việt Nam, trình độ từ đại  học trở lên và có ít nhất 05 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng hoặc dịch vụ việc làm; không  thuộc diện đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; không có án tích về một trong  các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân  phẩm, danh dự của con người, tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, tội lạm dụng tín  nhiệm chiếm đoạt tài sản, tội quảng cáo gian dối, tội lừa dối khách hàng, tội tổ  chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái  phép, tội tổ chức, môi giới cho người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước  ngoài trái phép, tội cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước  ngoài trái phép; 

d) Có đủ số lượng nhân viên nghiệp vụ thực hiện các nội dung quy định tại  Điều 9 của Luật Đưa người Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 

đ) Có cơ sở vật chất của doanh nghiệp hoặc được doanh nghiệp thuê ổn  định để đáp ứng yêu cầu giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi  làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 

e) Có trang thông tin điện tử. 

4. Người lao động không phải hoàn trả tiền môi giới 

Luật Người Lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng  năm 2020 đã bỏ quy định “Người lao động có trách nhiệm hoàn trả cho doanh  nghiệp dịch vụ một phần hoặc toàn bộ tiền môi giới theo quy định của Bộ Lao  động - Thương binh và Xã hội” quy định tại khoản 1 Điều 20 Luật Người lao  động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2006. 

Như vậy, từ năm 2022, người lao động Việt Nam làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng sẽ không cần hoàn trả tiền môi giới cho doanh nghiệp dịch vụ. Từ đó giúp người lao động giảm thiểu chi phí tiền dịch vụ khi đi làm việc ở nước  ngoài. 

5. Người lao động chỉ phải trả một phần phí dịch vụ 

Căn cứ điểm d Khoản 2 Điều 23 Luật Người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 thì trường hợp bên nước ngoài tiếp  nhận lao động đã trả tiền dịch vụ thì doanh nghiệp dịch vụ chỉ được thu từ người  lao động số tiền còn thiếu so với mức tiền dịch vụ đã thỏa thuận.

Trong khi đó, Điều 21 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước  ngoài theo hợp đồng năm 2006 quy định, doanh nghiệp dịch vụ thoả thuận với  người lao động về việc thu tiền dịch vụ một lần trước khi người lao động xuất  cảnh hoặc thu nhiều lần trong thời gian người lao động làm việc ở nước ngoài. 

Ngoài ra, căn cứ khoản 3 Điều 23 Luật Người lao động Việt Nam đi làm  việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020, khi hoàn trả tiền dịch vụ do người  lao động phải về nước trước thời hạn mà không phải lỗi của họ, doanh nghiệp  dịch vụ còn phải trả lãi suất tính theo tỷ lệ tương ứng với thời gian còn lại của  Hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, cụ thể: 

“Trường hợp doanh nghiệp dịch vụ đã thu tiền dịch vụ từ người lao động  cho toàn bộ thời gian làm việc thỏa thuận trong hợp đồng đưa người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài mà người lao động phải về nước trước thời  hạn và không do lỗi của người lao động thì doanh nghiệp dịch vụ phải hoàn trả  cho người lao động số tiền dịch vụ và tiền lãi theo tỷ lệ tương ứng với thời gian  còn lại của hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài. 

Tiền lãi được tính theo lãi suất đối với tiền gửi không kỳ hạn bằng đồng  Việt Nam của tổ chức tín dụng do các bên thỏa thuận tại thời điểm doanh nghiệp  hoàn trả cho người lao động”. 

6. Quy định cụ thể mức trần tiền dịch vụ 

Khoản 4 Điều 23 Luật Người lao động Việt nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng năm 2020 đã quy định cụ thể mức trần tiền dịch vụ mà doanh  nghiệp dịch vụ được phép thu từ người lao động như sau: 

a) Không quá 01 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng cho  mỗi 12 tháng làm việc; đối với sĩ quan và thuyền viên làm việc trên tàu vận tải biển không quá 1,5 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng cho mỗi 12 tháng làm việc. Trường hợp thỏa thuận trong hợp đồng đưa người lao động  Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài từ 36 tháng trở lên thì tiền dịch vụ không  được quá 03 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng; 

b) Trường hợp có thỏa thuận về việc thu tiền dịch vụ cho thời gian gia hạn  hợp đồng lao động trong hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở  nước ngoài thì mức tiền dịch vụ tối đa cho mỗi 12 tháng gia hạn làm việc không  quá 0,5 tháng tiền lương của người lao động theo hợp đồng; 

c) Đối với một số thị trường, ngành, nghề, công việc cụ thể, Bộ trưởng Bộ  Lao động - Thương binh và Xã hội quy định chi tiết mức trần tiền dịch vụ thấp  hơn quy định tại điểm a và điểm b khoản này. 

7. Người lao động được đơn phương chấm dứt hợp đồng nếu bị ngược  đãi, quấy rối tình dục 

Khoản 1 Điều 6 Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng quy định người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo  hợp đồng có các quyền sau đây:

a) Được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật của Việt Nam về  người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; chính sách,  pháp luật và phong tục, tập quán của nước tiếp nhận lao động có liên quan đến  người lao động; quyền, nghĩa vụ của các bên khi đi làm việc ở nước ngoài theo  hợp đồng; 

b) Được tư vấn, hỗ trợ để thực hiện quyền, nghĩa vụ và hưởng lợi ích trong  hợp đồng lao động, hợp đồng đào tạo nghề; 

c) Hưởng tiền lương, tiền công, chế độ khám bệnh, chữa bệnh, bảo hiểm xã  hội, bảo hiểm tai nạn lao động và quyền lợi, chế độ khác theo hợp đồng lao  động; chuyển về nước tiền lương, tiền công, thu nhập, tài sản hợp pháp khác của  cá nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật của nước tiếp nhận  lao động; 

d) Được bảo hộ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng trong thời  gian làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng phù hợp với pháp luật Việt Nam,  pháp luật của nước tiếp nhận lao động, pháp luật và thông lệ quốc tế; 

đ) Đơn phương chấm dứt hợp đồng khi bị người sử dụng lao động ngược  đãi, cưỡng bức lao động hoặc có nguy cơ rõ ràng đe dọa trực tiếp đến tính mạng,  sức khỏe hoặc bị quấy rối tình dục trong thời gian làm việc ở nước ngoài; 

e) Hưởng chính sách hỗ trợ về lao động, việc làm và quyền lợi từ Quỹ Hỗ  trợ việc làm ngoài nước theo quy định của pháp luật; 

g) Không phải đóng bảo hiểm xã hội hoặc thuế thu nhập cá nhân hai lần ở  Việt Nam và ở nước tiếp nhận lao động nếu Việt Nam và nước đó đã ký hiệp  định về bảo hiểm xã hội hoặc hiệp định tránh đánh thuế hai lần; 

h) Khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực  người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; 

i) Được tư vấn và hỗ trợ tạo việc làm, khởi nghiệp sau khi về nước và tiếp  cận dịch vụ tư vấn tâm lý xã hội tự nguyện. 

8. Quy định chuyển tiếp 

1. Kể từ ngày Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài  theo hợp đồng có hiệu lực thi hành: 

a) Doanh nghiệp dịch vụ đã được cấp Giấy phép theo quy định của Luật  Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số  72/2006/QH11 thì được tiếp tục hoạt động theo Giấy phép đã được cấp. 

Trường hợp doanh nghiệp dịch vụ không bảo đảm điều kiện quy định tại  các điểm a, b, d, đ và e khoản 1 Điều 10 của Luật Người lao động Việt Nam đi  làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 thì phải bổ sung đầy đủ điều  kiện trong thời hạn 12 tháng; trường hợp không bổ sung đầy đủ thì phải chấm  dứt hoạt động dịch vụ đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài và bị thu hồi Giấy phép;

b) Doanh nghiệp dịch vụ đã được cấp Giấy phép theo quy định của Luật  Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng số  72/2006/QH11 và bảo đảm điều kiện quy định tại các điểm a, b, d, đ và e khoản  1 Điều 10 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp  đồng năm 2020 thì có thể đề nghị đổi Giấy phép nếu có nhu cầu; 

c) Hợp đồng đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, hợp  đồng đưa người lao động đi thực tập và thỏa thuận khác có liên quan đã được ký  kết và người lao động đã xuất cảnh trước ngày Luật Người lao động Việt Nam  đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020 có hiệu lực thi hành thì tiếp  tục được thực hiện cho đến khi kết thúc hợp đồng; 

d) Hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng nhận lao động thực tập đã được  ký kết trước ngày Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo  hợp đồng năm 2020 có hiệu lực thi hành thì tiếp tục được thực hiện cho đến khi  kết thúc hợp đồng đối với những nội dung liên quan đến người lao động xuất  cảnh trước ngày 01 tháng 7 năm 2022; trường hợp người lao động xuất cảnh từ  ngày 01 tháng 7 năm 2022 thì hợp đồng cung ứng lao động, hợp đồng nhận lao  động thực tập phải được rà soát để đàm phán sửa đổi, bổ sung hoặc ký kết mới  bảo đảm phù hợp theo quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc  ở nước ngoài theo hợp đồng năm 2020. 

2. Chính phủ quy định về hồ sơ, thủ tục đổi Giấy phép quy định tại điểm b  khoản 1 Điều này.

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM

I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT BIÊN PHÒNG VIỆT NAM 

Việt Nam có đường biên giới đất liền khoảng 5.036,471 km, bờ biển dài  3.260 km với 44 tỉnh, thành phố có biên giới quốc gia, gồm: 239 huyện, thị,  thành phố trực thuộc tỉnh với 1.109 xã, phường, thị trấn khu vực biên giới. Biên  giới đất liền tiếp giáp với Trung Quốc, Lào và Campuchia, gồm: 25 tỉnh, 103  huyện, thị xã biên giới với 435 xã, phường, thị trấn. Có 203 cửa khẩu biên giới  đất liền và cửa khẩu cảng; trong đó có 25 cửa khẩu quốc tế, 24 cửa khẩu chính,  68 cửa khẩu phụ, 34 cửa khẩu cảng, 02 cảng nội địa, 282 bến cảng, 14 cảng dầu  khí ngoài khơi. Tuyến biển, đảo với 28 tỉnh, thành phố ven biển (136 huyện,  quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh với 675 xã, phường, thị trấn khu vực biên  giới biển); có 189 cảng biển, 15 khu kinh tế ven biển. Vùng biển Việt Nam rộng  trên 01 triệu km2 (vùng nội thủy, lãnh hải chiếm 37%). Dân cư khu vực biên  giới khoảng 2,3 triệu hộ/9,5 triệu khẩu, gồm 51 dân tộc, 06 tôn giáo khác nhau  (nhân dân khu vực biên giới đất liền chủ yếu là dân tộc thiểu số, có mối quan hệ thân tộc, dòng họ lâu đời hai bên biên giới); đời sống nhân dân khu vực biên  giới còn nhiều khó khăn: Có 256.528 hộ nghèo (chiếm 11%); 164.944 hộ cận  nghèo (chiếm 7,07%); 5.833 hộ đói (chiếm 0,25%). 

Đến nay, Việt Nam đã hoạch định, ký kết các hiệp định về biên giới, cửa  khẩu với các nước có chung đường biên giới, cụ thể: Đường biên giới trên đất  liền và trên biển, Việt Nam và các nước có chung biên giới hiện nay đã cơ bản  được xác định: Tuyến biên giới Việt Nam - Trung Quốc: Năm 2009, Chính phủ 

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân  dân Trung Hoa đã ký 03 văn kiện pháp lý gồm: Nghị định thư phân giới cắm  mốc trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về Quy chế quản lý biên  giới trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về cửa khẩu và Quy chế 

quản lý cửa khẩu trên đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Tuyến biên giới Việt  Nam - Lào: Năm 2012, Việt Nam và Lào thực hiện việc tăng dày, tôn tạo hệ thống mốc quốc giới; năm 2016, Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa  Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào ký Hiệp định về Quy chế quản lý biên giới và cửa khẩu biên giới trên đất liền Việt Nam - Lào.  Tuyến biên giới Việt Nam - Campuchia: Ngày 05/10/2019, Chính phủ nước  Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia ký 02 văn kiện pháp lý gồm: Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc  gia năm 1985 và Hiệp ước bổ sung năm 2005 giữa Việt Nam và Campuchia;  Nghị định thư Phân giới cắm mốc biên giới trên đất liền giữa Việt Nam và  Campuchia, ngày 27/11/2019, Quốc hội khóa XIV đã phê chuẩn (đến nay ta đã  hoàn thành 1.044, 985 km/1.249,446 km đạt khoảng 84%). Về biên giới trên  biển: Thực hiện Công ước của Liên Hiệp quốc về Luật biển năm 1982, ngày  12/11/1982, Chính phủ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ra Tuyên bố về đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam; theo đó đã xác định tọa độ 11 điểm chuẩn đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt Nam (A0 - A11; bắt đầu từ điểm A0 nằm trên ranh giới phía Tây Nam của vùng nước lịch  sử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Vương quốc Campuchia,  kết thúc là điểm A11 - Đảo Cồn Cỏ/Quảng Trị). Năm 2000, Việt Nam và Trung  Quốc đã ký kết Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, Hiệp định Hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ. 

Hiện nay, hòa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển là xu thế chung, tuy nhiên  tình hình chính trị - an ninh thế giới và khu vực đang diễn biến khá phức tạp,  khó lường, nhất là vấn đề tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên, xung đột sắc tộc, tôn  giáo, ly khai… Sự điều chỉnh chiến lược, can dự, chi phối, cạnh tranh, phân chia  lợi ích, củng cố quyền lực của các nước lớn đối với khu vực Châu Á - Thái Bình  Dương làm cho môi trường an ninh, chính trị ngày càng phức tạp. Các thế lực  thù địch tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam; vi phạm pháp luật, nhất là  tội phạm ma túy và các loại tội phạm có tính chất xuyên biên giới, di cư tự do  diễn biến phức tạp. Bên cạnh đó, các vấn đề an ninh phi truyền thống như biến  đổi khí hậu, thiên tai, ô nhiễm môi trường… ngày càng gia tăng, nhất là trong  tình hình hiện nay, dịch bệnh viêm đường hô hấp do chủng mới của vi rút  Corona (Covid-19) có ảnh hưởng tiêu cực đến hầu hết các quốc gia, vùng lãnh  thổ, liên quan trực tiếp đến công tác biên phòng trong phòng, chống lây lan dịch  bệnh qua biên giới của Việt Nam; qua đó, công tác phòng, chống dịch bệnh ở khu vực biên giới cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, lực lượng chức  năng trong nước và lực lượng bảo vệ biên giới của nước có chung đường biên  giới. 

Tình hình trên đặt ra nhiều yêu cầu đối với sự nghiệp đổi mới, phát triển và  tư duy mới về hoạt động biên phòng để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh  thổ của Tổ Quốc, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. 

Như vậy, việc ban hành Luật Biên phòng Việt Nam là hết sức cần thiết xuất  phát từ những vấn đề sau: 

Thứ nhất, trong những năm qua, Đảng, Nhà nước có nhiều chủ trương,  quan điểm, tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; xây dựng, quản lý, bảo vệ biên giới  quốc gia nhưng chưa được thể chế hóa thành pháp luật như:“Chiến lược bảo vệ  Tổ quốc trong tình hình mới”,“Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt  Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày  28/9/2018 của Bộ Chính trị về “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”; trong  đó, xác định nhiệm vụ biên phòng là “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,  toàn vẹn lãnh thổ, biên giới quốc gia,…; bảo vệ hòa bình, an ninh, văn hóa,  pháp luật, tính uy nghiêm và biểu tượng quốc gia tại biên giới, cửa khẩu; xây  dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác; bảo vệ, phòng thủ vững  chắc biên giới quốc gia; góp phần phát triển kinh tế - xã hội gắn với củng cố,  tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại ở khu vực biên giới và cả nước”;  đồng thời xác định “Xây dựng lực lượng bảo vệ biên giới quốc gia toàn dân  rộng khắp, nhân dân là chủ thể, lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt, Bộ.


Văn bản khác


     Liên kết website
     Bình chọn
    Thống kê: 769.434
    Online: 94